+Aa-
    Zalo

    Giải đáp loạt câu hỏi cần biết về cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ

    (ĐS&PL) - Cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ 2024 hiện đang bước vào giai đoạn nước rút, khi chỉ còn một tháng nữa là đến Ngày Bầu cử (5/11).

    Ngày Bầu cử 2024 là ngày nào?

    Theo quy định của Luật pháp Mỹ, bầu cử tổng thống diễn ra 4 năm một lần, vào năm chẵn, trong ngày thứ Ba đầu tiên của tháng 11. Bầu cử tổng thống Mỹ năm 2024 dự kiến diễn ra vào ngày 5/11 và là cuộc đua song mã giữa ứng viên đảng Dân chủ - Phó Tổng thống Kamala Harris và ứng viên đảng Cộng hòa – cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump, theo báo Dân Trí.

    Các cuộc bầu cử lựa chọn 435 nghị sĩ tại Hạ viện Mỹ viện được tổ chức 2 năm một lần.

    Thượng nghị sĩ Mỹ có nhiệm kỳ 6 năm được bố trí so le nhau sao cho cứ hai năm thì một phần ba (hoặc một phần ba cộng 1) trong số 100 ghế tại Thượng viện được bầu lại.

    Nếu một thượng nghị sĩ qua đời hoặc bị mất năng lực khi đang giữ chức vụ thì có thể tổ chức một cuộc bầu cử đặc biệt vào một năm lẻ hoặc vào năm chẵn tiếp theo. Thượng nghị sĩ được bầu mới này sẽ giữ chức cho đến khi kết thúc nhiệm kỳ của thượng nghị sĩ ban đầu. Tại một số bang, thống đốc sẽ bổ nhiệm người giữ chức vụ cho phần còn lại của nhiệm kỳ ban đầu.

    Ai có quyền tranh cử Tổng thống Mỹ?

    Theo Hiến pháp Mỹ, để làm tổng thống, một người phải sinh ra tại Mỹ, ít nhất 35 tuổi, và thường trú tại Mỹ trong ít nhất 14 năm. Phó tổng thống Mỹ cũng phải đáp ứng các tiêu chuẩn tương tự như vậy.

    Sau khi cơ bản xác định được ứng viên tiềm năng nhất ở vòng bầu cử sơ bộ, đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa sẽ tổ chức đại hội toàn quốc để chính thức đề cử ứng viên đại diện đảng ra tranh cử vị trí tổng thống và phó tổng thống.

    Để nhận được đề cử, mỗi ứng viên cần đạt được đa số phiếu đại biểu. Ví dụ, cựu Tổng thống Trump chính thức được đề cử của đảng Cộng hòa sau khi nhận được 2.387 trong số 2.429 phiếu đại biểu.

    Ở đảng Dân chủ, Phó Tổng thống Harris cũng đã nhận được đề cử của đảng sau khi Tổng thống Mỹ Joe Biden bất ngờ dừng tranh cử hồi cuối tháng 7.

    Những ai có thể bỏ phiếu và cần bao nhiêu phiếu để thắng cử?

    Hiến pháp quy định, công dân Mỹ từ đủ 18 tuổi trở lên đều có thể tham gia các cuộc bầu cử. Tuy nhiên trong các kỳ bầu cử luôn có một bộ phận lớn người dân không muốn đi bỏ phiếu, do không quan tâm tới chính trị hay đơn giản là không thích các ứng cử viên.

    Các cử tri Mỹ đi bỏ phiếu. Ảnh minh họa: EPA

    Các cử tri Mỹ đi bỏ phiếu. Ảnh minh họa: EPA

    Được biết, tổng thống và phó tổng thống do các đại cử tri của các bang bầu chọn chứ không phải do người dân bầu trực tiếp. Đại cử tri là những người đã công khai cam kết ủng hộ cho một ứng viên từ trước.

    Số lượng đại cử tri của mỗi bang thường được quyết định dựa vào dân số của bang đó. Do đó, ở hầu hết các bang (trừ Maine và Nebraska), ứng viên tổng thống nào giành được nhiều phiếu phổ thông nhất thì cũng nhận được toàn bộ phiếu đại cử tri của bang đó.

    Các đại cử tri hợp thành cử tri đoàn (Electoral College) của bang. Cả nước Mỹ có 538 phiếu đại cử tri, bằng số ghế trong quốc hội Mỹ là 535 cộng thêm 3 đại cử tri của thủ đô Washington.

    Khi bầu chọn sẽ có hai lá phiếu khác nhau: phiếu bầu tổng thống và phiếu bầu phó tổng thống. Người có số phiếu bầu cao nhất trong cuộc bầu cử tổng thống và vượt quá 50% số phiếu đại cử tri (tức là tối thiểu 270 phiếu trong số 538 phiếu đại cử tri) sẽ đắc cử tổng thống. Chức vụ phó tổng thống cũng tương tự.

    Người dân Mỹ bỏ phiếu như thế nào?

    Do chính quyền địa phương, thay vì chính quyền trung ương, tiến hành các cuộc bầu cử nên các địa phương khác nhau, thậm chí là trong cùng một bang, có thể có các loại lá phiếu và công nghệ bỏ phiếu khác nhau.

    Ngày nay, rất ít cử tri Mỹ đánh dấu “X” bên cạnh tên ứng viên trên lá phiếu bầu bằng giấy bởi nhiều địa phương sử dụng các hệ thống quang học để quét các lá phiếu mà các cử tri đã tô vào các ô tròn hoặc nối các đường lại. Tuy nhiên, vẫn có những địa phương khác sử dụng một loạt thiết bị bỏ phiếu được cơ giới hóa khác nhau.

    Trong những năm gần đây, nhiều bang đã áp dụng các thủ tục cấp phiếu bầu cho các cử tri trước ngày bầu cử. Xu hướng này bắt nguồn từ quy định về các lá phiếu vắng mặt, cấp cho các cử tri dự định sẽ không có mặt ở nhà (và ở địa điểm bỏ phiếu của họ) vào Ngày Bầu cử.

    Một số bang và địa phương từng bước tự do hóa quy định này, cho phép công dân đăng ký là “cử tri vắng mặt hoàn toàn” và đều đặn gửi lá phiếu bầu đến nhà của họ. Hai bang Oregon và Washington tiến hành các cuộc bầu cử hoàn toàn qua đường bưu điện. Các cử tri vắng mặt thường gửi lại phiếu bầu của họ qua đường bưu điện.

    Hiện nay, một số bang cho phép công dân bỏ phiếu sớm lên đến 3 tuần trước Ngày Bầu cử, sử dụng máy bỏ phiếu ở các trung tâm mua sắm và những nơi công cộng khác. Công dân dừng chân để bỏ phiếu khi thấy thuận tiện.

    Bỏ phiếu sớm có ảnh hưởng đến kết quả bầu cử không?

    Việc bỏ phiếu sớm không ảnh hưởng tới kết quả bầu cử vì ngay cả khi người dân bỏ phiếu sớm, lá phiếu của họ chưa được kiểm đếm cho đến khi đóng cửa phòng bỏ phiếu vào đêm bầu cử. Điều này ngăn chặn rò rỉ thông tin chính thức về những ứng cử viên nào đang có số phiếu hơn hay kém, có thể làm ảnh hưởng đến việc bỏ phiếu của các cử tri khác vào Ngày Bầu cử.

    Một điểm chung mà tất cả các địa phương của Mỹ đều có là không lá phiếu nào được lập bảng kiểm phiếu chính thức và công bố công khai cho đến khi các phòng bỏ phiếu đã đóng cửa.

    Mặc dù các đài truyền hình Mỹ thường tiến hành một cuộc thăm dò sau bầu cử đối với những người vừa mới bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử quốc gia, song trong những năm gần đây hoạt động này đang chịu sự giám sát chặt chẽ.

    Có phải cuộc bầu cử tổng thống chỉ bầu tổng thống?

    Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng luôn thu hút được nhiều sự quan tâm nhất nhưng trên thực tế, bầu cử Tổng thống ở Mỹ được tiến hành song song với bầu cử quốc hội để chọn ra các nghị sĩ Hạ viện, Thượng viện.

    Ngoài ra, tùy theo yêu cầu của từng bang, trên lá phiếu của cử tri sẽ còn có những câu hỏi khác như bầu Thống đốc bang, bầu cơ quan lập pháp và các chức vụ dân cử của bang hay trưng cầu dân ý về một số vấn đề được đưa ra.

    Nếu không ứng viên nào giành quá bán số phiếu đại cử tri thì sao?

    Mặc dù rất hiếm xảy ra nhưng vẫn có kịch bản không có ứng cử viên nào giành đủ quá bán số phiếu đại cử tri. Khi này, Hạ viện Mỹ sẽ có quyền bầu chọn Tổng thống trong số các ứng cử viên được nhiều phiếu nhất.

    Sau khi đã có kết quả chính thức và không còn tranh chấp nào, người đắc cử sẽ tuyên thệ và chính thức đảm nhận vị trí tổng thống trong buổi lễ diễn ra vào ngày 20/1 năm sau.

    Không phải ứng cử viên có nhiều phiếu bầu nhất luôn giành chiến thắng. Trên thực tế, đã có 4 cuộc bầu cử tổng thống mà người chiến thắng không nhận được đa số phiếu phổ thông. Người đầu tiên là ông John Quincy Adams trong cuộc bầu cử năm 1824, và gần đây nhất là vào năm 2000 trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng giữa ông George W. Bush và ông Al Gore.

    Các ứng cử viên chi tiền cho chiến dịch tranh cử như thế nào?

    Theo thông tin trên Infonet, từ năm 1976, các ứng viên tổng thống có thể xin tài trợ từ ngân sách chính phủ để thực hiện các chiến dịch tranh cử. Đến cuộc bầu cử năm 2000, tất cả các ứng viên được đề cử tranh chức tổng thống đều tham gia vào hệ thống này bằng việc nhận tiền từ ngân sách chính phủ với lời hứa cam kết không chi nhiều hơn một số tiền đã định.

    Tuy nhiên, hệ thống này giờ đây đã không còn hấp dẫn đối với các ứng viên nữa, bởi giới hạn chi tiêu đặt ra được cho là quá thấp và còn ít hơn cả số tiền mà các ứng viên chính có thể thường xuyên nhận được từ các nguồn tư nhân. Kết quả là, một số ứng viên tổng thống gần đây đã từ chối khoản tài trợ từ ngân sách chính phủ, thay vào đó gây quỹ để tài trợ các chiến dịch tranh cử của mình.

    Đối với các ứng viên tự gây quỹ riêng, luật liên bang quy định các ứng cử viên tổng thống, thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ gây quỹ như thế nào và từ những ai. Luật cũng hạn chế số tiền mà một cá nhân có thể quyên góp, đồng thời đảm bảo rằng báo chí và người dân biết được ai đang góp quỹ cho một ứng cử viên nhất định.

    Ứng cử viên tổng thống phải thành lập một tổ chức cho chiến dịch vận động của mình gọi là ủy ban chính trị và đăng ký với Ủy ban Bầu cử Liên bang. Sau khi đăng ký, các ủy ban chính trị có thể tìm kiếm nguồn đóng góp nhưng phải báo cáo tất cả nguồn tiền đã gây quỹ được cho Ủy ban Bầu cử Liên bang để thông tin cho công chúng.

    Các ứng cử viên tổng thống của các đảng lớn gần đây đã chi hàng trăm triệu USD cho chiến dịch tranh cử của mình. Những ứng viên gây quỹ riêng phải tìm được hàng ngàn người đóng góp.

    Tại sao các chiến dịch tranh cử Tổng thống Mỹ lại tốn kém?

    Câu trả lời ngắn gọn là chi phí truyền thông đến 100 triệu cử tri trong 12 tháng hoặc hơn trong mùa tranh cử tổng thống là đắt đỏ. Các ứng cử viên Tổng thống Mỹ phải vận động tranh cử ở cấp quốc gia và tại 50 bang.

    Điều đó có nghĩa là họ phải thuê nhân viên vận động ở cả cấp bang và cấp quốc gia, trực tiếp gặp gỡ cử tri và thông qua truyền hình quốc gia và địa phương, đài phát thanh và các phương tiện truyền thông xã hội. Sự gia tăng các cuộc bầu cử sơ bộ và họp kín đã khiến các chiến dịch tranh cử dài hơn, chi phí đi lại và quảng cáo tốn kém nhiều hơn trước đây.

    Để thực hiện chiến dịch tranh cử, ứng cử viên cần phải thuê nhân viên; bố trí văn phòng và phương tiện đi lại; tiến hành nghiên cứu; phát hành các bài trình bày quan điểm; quảng cáo trên đài phát thanh và truyền hình, trong các ấn phẩm và trên mạng Internet, ngoài ra còn thực hiện hàng loạt buổi xuất hiện trước công chúng và các sự kiện gây quỹ.

    Các ứng viên tổng thống còn có một nhiệm vụ khó khăn nữa là phải tổ chức các cuộc vận động tranh cử sơ bộ hết bang này đến bang khác, sau đó nếu được đề cử thì tiến hành vận động tranh cử chung trên khắp đất nước. Ứng cử viên vào Hạ viện sẽ vận động tranh cử ở đơn vị bầu cử cụ thể của mình, trong khi ứng cử viên vào Thượng viện phải thực hiện vận động trong toàn bang.

    Cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump (ứng viên đảng Cộng hòa) và Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris (ứng viên đảng Dân Chủ). Ảnh: Washington Post

    Cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump (ứng viên đảng Cộng hòa) và Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris (ứng viên đảng Dân Chủ). Ảnh: Washington Post

    Ứng viên có thể tiếp cận các nguồn tài trợ khác không?

    Năm 2010, Tòa án tối cao ra phán quyết rằng chi tiêu cho hoạt động chính trị là chi tiêu cho một hình thức tự do ngôn luận, do đó được Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp Mỹ bảo vệ. Kết quả là, từ năm 2010, các ứng cử viên có thể sử dụng không hạn chế số tiền của riêng mình để tài trợ cho các chiến dịch tranh cử.

    Phán quyết nói trên mang lại nhiều tự do hơn cho các “Ủy ban hành động chính trị” (PAC), được hình thành khi các cá nhân, doanh nghiệp và các nhóm lợi ích gom và quyên tiền để ủng hộ các ý tưởng, các ứng cử viên, các sáng kiến bỏ phiếu hoặc đạo luật cụ thể.

    Theo luật liên bang, một tổ chức sẽ trở thành một PAC khi nhận được hoặc chi tiêu hơn 2.600 USD nhằm mục đích gây ảnh hưởng đến cuộc bầu cử liên bang. Các bang có luật riêng quy định khi nào một tổ chức sẽ trở thành một PAC.

    Vì các tổ chức này độc lập với ủy ban gây quỹ chính thức của ứng cử viên nên PAC không chịu sự điều chỉnh bởi cùng một quy định dù các tổ chức này phải đăng ký với Ủy ban bầu cử liên bang. Tuy nhiên, PAC lại bị giới hạn về cách phối hợp chặt chẽ với các ứng cử viên.

    Chẳng hạn như, một PAC không thể đóng góp nhiều hơn 5.000 USD trực tiếp cho ủy ban bầu cử của một ứng cử viên nhưng có thể chi một số lượng tiền không giới hạn để thực hiện các quảng cáo ủng hộ hay phản đối quan điểm một ứng viên cụ thể.

    Các cuộc thăm dò có quan trọng không và liệu có chính xác?

    Mặc dù không phải là một phần của các quy tắc và luật về bầu cử nhưng các cuộc thăm dò dư luận đã trở thành một phần quan trọng của quá trình bầu cử. Nhiều ứng viên chính trị thuê người làm công việc thăm dò dư luận và thường xuyên tiến hành thăm dò dư luận.

    Việc thăm dò dư luận giúp các ứng viên chính trị biết họ đang được đánh giá tích cực đến mức nào so với các đối thủ của mình và những vấn đề gì là quan trọng hơn hết đối với các cử tri.

    Báo chí, truyền hình và các phương tiện truyền thông khác cũng thực hiện các cuộc thăm dò dư luận và thông báo kết quả (cùng với kết quả của các cuộc thăm dò dư luận riêng) nhằm giúp công chúng biết được sự ưa thích của họ đối với các ứng viên, các vấn đề và quan điểm của họ so với quan điểm của những người khác.

    Ngày nay, trong kỷ nguyên thông tin tức thời, internet và các trên các kênh truyền hình cáp đưa tin sốt dẻo liên tục 24 giờ, có nhiều cuộc thăm dò dư luận hơn và nhiều báo cáo và phân tích về kết quả của các cuộc thăm dò dư luận. Trong khi một số cuộc thăm dò sử dụng các phương tiện tiên tiến, các cuộc thăm dò khác lại được tiến hành vội vã với quy mô quá nhỏ và có giá trị giải trí hơn là giá trị khoa học xã hội. 

    Những năm gần đây ngày càng có nhiều người nghi ngờ về tính chính xác và khách quan của nhiều cuộc thăm dò dư luận, và ít nhất hai công ty thăm dò dư luận lớn đã phải dừng việc thăm dò kiểu “qua loa hình thức” xung quanh cuộc bầu cử tổng thống. 

    Hồi năm 2016, phần lớn các khảo sát cho thấy ứng viên Cộng hòa – ông Donald Trump có thể thất bại trước ứng viên Dân chủ - bà Hillary Clinton. Tuy nhiên, trong kết quả bầu cử cuối cùng, ông Trump chiến thắng khi giành được nhiều phiếu đại cử tri hơn.

    Các kết quả không chính xác năm 2016 đã bộc lộ một số hạn chế của các cuộc khảo sát. Các thăm dò dư luận chủ yếu chỉ đưa ra xu hướng nào đó về một ứng viên nào đó được yêu thích tại một thời điểm nhưng chưa chắc là ứng viên đó đắc cử.

    Bên cạnh đó, khảo sát tập trung thăm dò ý kiến của cử tri ở những bang nhất định, trong khi theo thể lệ bầu cử, cử tri chỉ bỏ phiếu phổ thông để bầu đại cử tri, sau đó các đại cử tri bầu tổng thống.

    Một người có thể làm tổng thống mấy lần?

    Sau khi ông George Washington – Tổng thống đầu tiên từ chối chạy đua ứng cử nhiệm kỳ thứ ba, nhiều người Mỹ tin rằng 2 nhiệm kỳ là đủ đối với bất kỳ tổng thống nào của nước Mỹ. 

    Không có tổng thống nào sau ông George Washington ứng cử nhiệm kỳ thứ ba cho đến tận năm 1940, khi mà vào thời điểm cuộc Đại khủng hoảng và Thế chiến thứ hai, ông Franklin D. Roosevelt đã ứng cử và giành chiến thắng nhiệm kỳ tổng thống thứ ba. Ông đã giành chiến thắng nhiệm kỳ thứ tư vào năm 1944 và qua đời khi đang giữ chức vụ vào năm 1945. 

    Một số người cho rằng, khoảng thời gian đó là quá dài để một người nắm giữ quyền lực tổng thống. Vì vậy, vào năm 1951, Tu chính án thứ 22 của Hiến pháp Mỹ đã được phê chuẩn, trong đó nghiêm cấm bất kỳ người nào đảm nhiệm cương vị tổng thống Mỹ quá 2 nhiệm kỳ.

    Link bài gốcLấy link
    https://doisongphapluat.nguoiduatin.vn/giai-ap-loat-cau-hoi-can-biet-ve-cuoc-bau-cu-tong-thong-my-a470948.html
    Zalo

    Cảm ơn bạn đã quan tâm đến nội dung trên.

    Hãy tặng sao để tiếp thêm động lực cho tác giả có những bài viết hay hơn nữa.

    Đã tặng:
    Tặng quà tác giả
    BÌNH LUẬN
    Bình luận sẽ được xét duyệt trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.
    Tin liên quan