Thực hiện Quyết định số 447/QĐ-KTNN ngày 22/2/2024 của Tổng Kiểm toán nhà nước (KTNN) về việc kiểm toán hoạt động xây dựng và việc quản lý, sử dụng vốn đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng giai đoạn 1, Đoàn KTNN thuộc KTNN chuyên ngành IV đã tiến hành kiểm toán dự án từ ngày 29/2/2024 đến ngày 18/4/2024.
Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng giai đoạn 1 là dự án quan trọng quốc gia, được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 60/2022/QH15 ngày 16/6/2022. Dự án được đầu tư khoảng 188,2km, chia thành 4 dự án thành phần theo hình thức đầu tư công, trong đó: Dự án thành phần 1 (DATP1) có chiều dài dự kiến 57,2km, địa điểm xây dựng tại tỉnh An Giang và TP.Cần Thơ; Dự án thành phần 2 (DATP2) có chiều dài dự kiến 37,2km, địa điểm xây dựng tại TP.Cần Thơ; Dự án thành phần 3 (DATP3) có chiều dài dự kiến 36,9km, địa điểm xây dựng tại tỉnh Hậu Giang; Dự án thành phần 4 (DATP4) có chiều dài dự kiến 56,9km, địa điểm xây dựng tại tỉnh Hậu Giang và tỉnh Sóc Trăng.
KTNN cho biết, kết quả kiểm toán cho thấy các Ban QLDA chưa có kinh nghiệm thực hiện các dự án quan trọng quốc gia, dự án đường cao tốc; một số cán bộ chủ chốt của các Ban QLDA chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu về chứng chỉ hành nghề theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 15/2021/NĐ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ (tại DATP1, DATP3, DATP4).
Việc thực hiện áp dụng cơ chế đặc thù trong khai thác mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường còn chưa hiệu quả, ngoại trừ DATP1 trên địa bàn tỉnh An Giang, các dự án thành phần khác đều gặp khó khăn và không chủ động được nguồn vật liệu.
Theo KTNN, nguyên nhân do nhu cầu sử dụng nguồn vật liệu xây dựng thông thường nói chung, vật liệu cát nói riêng trong khu vực các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long tăng đột biến do triển khai xây dựng cùng lúc nhiều dự án giao thông, đường cao tốc quy mô lớn.
Bên cạnh đó, hiện chưa có cơ chế phối hợp cụ thể giữa các địa phương trong khu vực trong việc rà soát, phối hợp cung cấp nguồn vật liệu xây dựng thông thường để sử dụng cho các dự án giao thông lớn, quan trọng trên địa bàn; Cơ quan chuyên môn của các địa phương chưa rà soát toàn diện nguồn vật liệu trên địa bàn để xem xét sử dụng cho các dự án cao tốc hoặc chưa có các hướng dẫn kịp thời để chủ đầu tư, nhà thầu thực hiện.
Đồng thời, một số Bộ chưa hoàn thành việc hướng dẫn thủ tục, phương án khai thác, công bố giá vật liệu khai thác tại mỏ theo Thông báo số 136/TB-VPCP ngày 03/4/2024 của Văn phòng Chính phủ làm cơ sở cho địa phương thực hiện đối với các mỏ cát biển tại tỉnh Sóc Trăng.
Theo KTNN, kết quả kiểm toán cũng chỉ ra rằng, hồ sơ khảo sát vật liệu cung cấp cho dự án không xác định cụ thể mỏ vật liệu cung cấp cho từng gói thầu, trữ lượng còn lại, công suất khai thác, tình hình cung cấp vật liệu cho dự án khác hoặc chưa thực hiện lấy mẫu kiểm tra chất lượng đối với các vị trí mỏ chưa khai thác; một số mỏ không có khả năng cung cấp cho dự án, một số mỏ thông số thí nghiệm chưa đảm bảo; việc áp dụng một số thông số thí nghiệm vào tính toán chưa phù hợp.
Bố trí trạm dừng nghỉ trên toàn tuyến khi chưa làm rõ quy hoạch và vị trí, quy mô trạm đảm bảo khoảng cách chung cho toàn dự án theo quy định. Hồ sơ thiết kế kỹ thuật một số gói thầu xây lắp không thể hiện đầy đủ các thông số, chưa đủ cơ sở để tính toán khối lượng lập dự toán (DATP1, DATP3); một số biện pháp thi công còn chưa phù hợp hoặc thiếu một số bảng tính kết cấu (DATP1, DATP4).
Đáng chú ý, tại dự án thành phần 4, đoàn kiểm toán còn phát hiện việc lập nhu cầu tái định cư (số hộ dân), xây dựng quy mô khu tái định cư lớn hơn nhu cầu tái định cư của dự án.
Công tác lập, thẩm tra, thẩm định và phê duyệt tổng mức đầu tư (TMĐT) còn một số hạn chế, sai sót trong tính toán khối lượng, xác định chi phí thực hiện các công việc khác còn chưa chính xác làm tăng giá trị TMĐT 381.806 triệu đồng (DATP1 là 87.082 triệu đồng; DATP2 là 47.721 triệu đồng; DATP3 là 59.903 triệu đồng; DATP4 là 187.100 triệu đồng); việc xác định một số chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong TMĐT của Dự án là tạm tính, chưa đầy đủ thông tin, căn cứ, cơ sở nên còn chênh lệch so với giai đoạn triển khai thực hiện (DATP2, DATP3, DATP4).
Trong báo cáo thẩm định của Cục cao tốc Việt Nam chưa xác định danh mục các định mức cần tổ chức khảo sát trong quá trình thi công xây dựng theo quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 13 Nghị định số 10/2021/NĐ-CP ngày 9/2/2021, các định mức điều chỉnh này chưa được Chủ đầu tư xem xét, quyết định việc sử dụng để làm cơ sở xác định giá xây dựng công trình theo quy định tại điểm c khoản 4 Điều 21 Nghị định số 10/2021/NĐ-CP; một số định mức được vận dụng chưa phù hợp hoặc điều chỉnh nhưng chưa đưa vào danh mục để chủ đầu tư trình thẩm định, phê duyệt; còn sai khối lượng, đơn giá làm tăng giá trị dự toán các gói thầu 224.172 triệu đồng (DATP1 là 32.268 triệu đồng; DATP2 là 63.187 triệu đồng; DATP3 là 43.426 triệu đồng; DATP4 là 85.291 triệu đồng).
Cụ thể, tại DATP1, chủ đầu tư tổ chức lập nhiệm vụ khảo sát, xác định giá trị dự toán, giá trị gói thầu và giá trị hợp đồng các gói thầu tư vấn lập dự án, tư vấn thiết kế là chưa phù hợp với năng lực theo quy định; gói thầu khảo sát, tư vấn lập báo cáo nghiên cứu kỹ thuật không có căn cứ pháp lý về sự cần thiết phải tính toán thủy lực công trình theo mô hình tính toán thủy lực một chiều, không có căn cứ tính toán giá trị dự toán đối với một số khoản mục chi phí, áp dụng hệ số tỷ lệ chi phí lập phương án khảo sát 1,5%, lập báo cáo kết quả khảo sát 2,5% cho công tác thí nghiệm, công tác cắm cọc GPMB và chi phí chung của công tác khảo sát 59% cho công tác GPMB chưa phù hợp quy định; số lượng mẫu thí nghiệm xác định trong dự toán không đủ căn cứ, chưa phù hợp quy định…
Trong lựa chọn nhà thầu, thương thảo ký kết hợp đồng, tại DATP1, Hồ sơ yêu cầu định số lượng máy thi công thấp hơn so với nhu cầu sử dụng của một số gói thầu; tiên lượng mời thầu không thống nhất với phần đo đạc và xác định khối lượng thanh toán trong Chỉ dẫn kỹ thuật. Tại DATP2 và 3, Hợp đồng chưa quy định chi tiết phương pháp điều chỉnh đơn giá liên quan đến các định mức mới, định mức điều chỉnh khi có kết quả khảo sát, chuẩn xác lại trong quá trình thi công. Với DATP4, chưa công khai kết quả chỉ định thầu theo quy định.
Liên quan đến quản lý chi phí, chủ đầu tư chưa xác định định mức các công tác có điều chỉnh trong quá trình thi công; còn sai sót trong quản lý chi phí về khối lượng, đơn giá. Các gói thầu xây lắp tại các DATP đều chậm tiến độ do khó khăn về nguồn vật liệu và vướng mắc trong giải phóng mặt bằng.
Từ những tồn tại, hạn chế phát hiện qua kiểm toán, KTNN kiến nghị xử lý tài chính 1,845 tỷ đồng (DATP1 là 31 triệu đồng; DATP2 là 1,228 tỷ đồng; DATP3 là 124 triệu đồng; DATP4 là 462 triệu đồng); xử lý khác 45,154 tỷ đồng (DATP1 là 44,862 tỷ đồng; DATP4 là 292 triệu đồng).
Ngoài ra, KTNN kiến nghị các chủ đầu tư dự án thành phần kiểm tra, rà soát, tính toán, chuẩn xác các tồn tại theo đúng quy định pháp luật đối với các nội dung về xử lý nền đất yếu. Tổ chức rà soát dự toán các gói thầu xây lắp, gói thầu tư vấn, gói thầu thuộc chi phí GPMB, trong đó lưu ý những sai sót, tồn tại phát hiện qua kiểm toán, trên cơ sở đó rà soát điều chỉnh giá trị hợp đồng các gói thầu xây lắp, tư vấn, chi phí liên quan có ảnh hưởng theo quy định của hợp đồng và quy định pháp luật.
KTNN đã kiến nghị các cơ quan, đơn vị có liên quan chấn chỉnh rút kinh nghiệm đối với các tồn tại, hạn chế trong quá trình thực hiện dự án, đồng thời kiến nghị kiểm điểm, xác định trách nhiệm tập thể, cá nhân và xem xét xử lý theo quy định đối với một số tồn tại trong việc lựa chọn các tổ chức, cá nhân chưa đủ năng lực theo quy định, công tác khảo sát mỏ vật liệu, thiết kế xử lý nền đất yếu, công tác lập, thẩm định, phê duyệt, dự toán, công tác lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu, ký kết hợp đồng, công tác quản lý chất lượng, công tác quản lý chi phí tại DATP1 và kiến nghị kiểm điểm tập thể và cá nhân có liên quan đến một số tồn tại, hạn chế trong công tác thiết kế nền đất yếu tại DATP2.
Đồng thời, KTNN kiến nghị Bộ GTVT chủ trì nghiên cứu, rà soát để thống nhất áp dụng hoặc có ý kiến với các Bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, xử lý về tiêu chuẩn, hướng dẫn hiện hành về thiết kế, tính toán xử lý nền đất yếu; cũng như quy định chi tiết, cụ thể số lượng thí nghiệm địa chất công trình trong Tiêu chuẩn khảo sát, thiết kế nền đường ô tô làm căn cứ quản lý chất lượng, quản lý chi phí đầu tư dự án.
Đồng thời, rà soát TCVN 5729:2012 để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Nghị định số 15/2021/NĐ-CP và các Tiêu chuẩn cơ sở mới được ban hành. Bên cạnh đó, Bộ cũng cần hoàn thành phương án khai thác cát biển làm vật liệu san lấp cho các dự án đường cao tốc.
Bộ Xây dựng nghiên cứu xây dựng, ban hành định mức vận chuyển các loại vật liệu, cấu kiện xây dựng bằng đường thủy làm cơ sở quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình; công bố giá vật liệu cát biển khai thác tại mỏ theo chỉ đạo tại Thông báo số 136/TB-VPCP ngày 3/4/2024 của Văn phòng Chính phủ.