Trương Phi (166 - 221), tự Ích Đức, thường gọi Dực Đức, là một trong ngũ hổ tướng nhà Thục Hán. Trong Tam Quốc, Lữ Bố được xem là võ tướng mạnh nhất, nhưng người dám mạnh miệng mắng Lữ Bố chỉ có một mình Trương Phi.
Trương Phi tài giỏi không kém Lữ Bố. Ông đã từng giao đấu với thần tướng Quan Vũ, kết nghĩa huynh đệ với Lưu Bị và cùng Lưu Bị chinh chiến khắp bốn phương.
Trước khi gặp Lưu Bị và Quan Vũ, Trương Phi làm nghề giết lợn, là một đồ tể chính hiệu. Song đồ tể không phải là nghề ai cũng làm được. Nghề này cần sử dụng sức lực của mình để khống chế con lợn. Trương Phi nhờ vào hoàn cảnh này mà đã luyện nên khí lực mạnh mẽ.
Căn cứ theo sử sách ghi lại, Trương Phi có thể khiêng hơn 1 tạ thịt lợn, đi bộ như bay, khả năng sử dụng dao thành thạo. Cho nên khi tòng quân, kinh nghiệm này giúp Trương Phi như hổ thêm cánh.
Hơn nữa, Trương Phi không chỉ có sức mạnh, mà có nền tảng võ thuật từ trước. Các thế hệ nhà Trương Phi đều làm nghề đồ tể, điều kiện kinh tế cao hơn gia đình bình thường. Ngay từ nhỏ, ông thích múa đao luyện côn, từng bái vị sư phụ 70 tuổi học võ, võ thuật đã thấm nhuần trong máu và được cải thiện theo từng năm tháng lớn lên.
La Quán Trung miêu tả Trương Phi “tiếng vang như sấm, chạy nhanh như ngựa, râu cọp hàm én, đầu beo mắt lồi, lấy thủ cấp tướng giặc trong muôn quân như lấy đồ trong túi".
Trong mắt người đời, Trương Phi gắn liền hình ảnh võ tướng tính nóng như lửa, bản chất thật thà, suy nghĩ đơn giản. Dân gian thường ví “nóng như Trương Phi, đa nghi như Tào Tháo”, tính cách nóng nảy cùng sở thích uống rượu được gắn với một trong "ngũ hổ tướng".
Tuy nhiên, ít ai biết rằng Trương Phi còn là một mãnh tướng đa tài, có phong độ của một bậc quân tử, đồng thời sở hữu con mắt chính trị, nhìn xa trông rộng, chứ không nông cạn, thô lỗ.
Mãnh tướng tài giỏi
Trong trận Đương Dương - Trường Bản, quân Lưu Bị thua, bỏ chạy. Huyền Đức sai Dực Đức dẫn 20 kỵ binh chặn hậu, cản quân Tào. Trương Phi chờ Lưu Bị và những người khác sang sông rồi đứng chờ trên cầu Trường Bản.
Ông phá bỏ cầu, cầm mâu nghênh địch. Quân Tào phần sợ Trương Phi, phần ngại ông có kế khác nên không dám sang sông. Nhờ đó, Lưu Bị và thủ hạ chạy thoát đến Hán Tân.
Để tăng thêm sắc thái anh hùng cho Dực Đức, La Quán Trung kể Trương Phi đứng trên cầu, quát to tới mức quân Tào run sợ, Hạ Hầu Kiệt thậm chí vỡ mật mà chết. Đương nhiên, đây chỉ là tình tiết hư cấu của tác giả.
Ông cũng là một trong hai tướng có thể đánh Lữ Bố (người còn lại là Hứa Chử). Ngoài ra, Trương Phi không hề hữu dũng vô mưu như một số người vẫn nghĩ.
Trong trận Trường Bản, Trương Phi chặn được quân Tào một phần nhờ kế cột cành cây vào đuôi ngựa, quét đất bụi mù mịt khiến đối phương sợ có phục binh.
Năm 213, Lưu Bị mâu thuẫn với người anh em Lưu Chương, dẫn đến cuộc giao tranh ở Ích Châu. Trương Phi cùng nhiều tướng khác theo Gia Cát Lượng dẫn quân đến cứu viện.
Lưu Chương bày binh bố trận chặt chẽ ở Ích Châu nhưng lại để ngỏ Giang Châu, thủ phủ của Ba Quận. Lão tướng Nghiêm Nhan quyết cố thủ nhưng Ba Quận đã bị quân Thục tràn vào không lâu sau đó.
Cuốn Tam quốc chí của sử gia Trần Thọ đã ghi chép lại màn đấu khẩu giữa Trương Phi và Nghiêm Nhan. “Đại tướng quân, vì sao không hàng mà dám kháng cự”, Trương Phi mắng. Nghiêm Nhan không chút sợ hãi, lớn tiếng đáp: “Các người cướp đất của ta, đất Giang Châu dù có tướng bị mất đầu, chứ quyết không có tướng đầu hàng giặc.”
Trương Phi nghe vậy, vô cùng bực tức, hạ lệnh đem Nghiêm Nhan đi chặt đầu trước dân chúng. Đứng trước cái chết, Nghiêm Nhan vẫn cười lớn: “Chém đầu thì chém đầu, việc gì mà phải tức giận như thế”.
Ngưỡng mộ trước khí khái phi phàm của Nghiêm Nhan, Trương Phi đổi giận thành vui, tự tay cởi trói và tiếp đãi đối phương như thượng khách.
Theo các học giả Trung Quốc, việc Trương Phi thu phục Nghiêm Nhan cho thấy, ông không thể là kẻ hữu dũng vô mưu như người đời sau lầm tưởng.
Năm 215, Trương Phi một lần nữa dùng kế, tung tin ông say rượu, dụ Trương Cáp lẻn vào trại rồi sai phục binh đánh bại ông ta. Không chỉ là mãnh tướng hữu dũng, Trương Phi còn có tài thư pháp và vẽ tranh tuyệt đỉnh, đặc biệt là tranh mỹ nhân.
Đao kiếm lục của Đào Hoằng Ảnh đời nhà Lương ghi lại: “Trương Phi khi mới được phong tước Tân Đình hầu, đã sai thợ tôi thép làm một thanh đao, tự tay khắc lời minh: Tân Đình hầu, đại tướng nước Thục. Sau khi Phi bị Phạm Cường giết, cây đao được dâng cho nước Ngô”.
Sau khi lấy ít địch nhiều, đánh bại Trương Cáp, Dực Đức một lần nữa trổ tài văn chương qua lời lẽ hùng tráng khắc trên bia đá ông sai người dựng trên sườn núi Đãng Cừ. “Tướng quân nhà Hán là Phi, suất lãnh một vạn tinh binh đại phá đầu sỏ của giặc là Trương Cáp ở Đãng Cừ, dừng ngựa dựng bia”.
Trong cuốn Họa tủy nguyên thuyên, danh họa kiêm nhà thơ Trác Nhĩ Xương đời Minh có ghi lại Trương Phi thích vẽ người đẹp, giỏi chữ thảo.
Họa sát thân từ sự nóng nảy
Sau khi Quan Vũ bị Tôn Quyền giết, Trương Phi nóng lòng báo thù nhưng chưa có cơ hội nên chán nản, thường xuyên uống rượu và đánh đập quân lính khi họ phạm lỗi.
Năm 221, Lưu Bị lên ngôi hoàng đế, phong Dực Đức làm Xa kỵ tướng quân kiêm Tư Lệ hiệu úy, cầm quân bản bộ xuất phát từ Lãng Trung đến Giang châu hội binh với Lưu Bị để đánh Đông Ngô, báo thù cho Vân Trường.
Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng Trương Phi bắt hai tướng Trương Đạt và Phạm Cương phải gấp rút may đủ áo giáp trắng để tang Quan Vũ trong thời gian ngắn.
Hai người báo lại việc này khó hoàn thành thì bị Phi sai người đánh đập, ra lệnh nhất thiết phải làm xong. Lo sợ bị giết, hai người chờ Trương Phi uống rượu, ngủ say rồi lẻn vào trướng, sát hại. Sau đó, Trương Đạt và Phạm Cương trốn sang Đông Ngô.
Trong Tam Quốc chí, sử gia Trần Thọ đánh giá công bằng về danh tướng nhà Thục Hán như sau: “Trương Phi sức địch vạn người, hổ thần một thời. Phi vì nghĩa thả Nghiêm Nhan, có phong độ quốc sĩ. Nhưng Phi bạo mà vô ơn, lấy sở đoản chuốc lấy thất bại, là lẽ thường vậy”.
Mộc Miên (T/h)