Ngôi mộ kết của kẻ ăn mày
Tình cờ, tôi có dịp ghé qua xã Tân Dân, huyện Phú Xuyên, Hà Nội. Tại đây, tôi được người dân kể cho nghe câu chuyện về sự giàu có nổi tiếng khắp vùng của cụ Chánh Đúc tên thật là Nguyễn Đình Giám, sinh sống vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Cụ giàu có vì được hưởng lộc từ ngôi mộ phát.
Bà Thanh (65 tuổi, xã Tân Dân, Phú Xuyên, Hà Nội) cho biết: “Câu chuyện về cụ Chánh Đúc ở đây từ trẻ con đến các cụ già, ai cũng biết. Người ta còn có câu ví von “giàu như ông Chánh Đúc””. Cũng theo lời bà Thanh kể, theo câu chuyện bà được nghe từ các cụ cao niên trong làng, bố ông Chánh Đúc là một người ăn mày, bị chết trên đường đi khất thực bên Hưng Yên. Sau khi chết, ngôi mộ ấy bị mối đùn lên thành đống, từ đó ông Chánh Đúc giàu có nhất vùng.
Nghe bà Thanh kể xong, tôi tìm đường tới xã Chuyên Mỹ, nơi vẫn còn con cháu của cụ Chánh Đúc sống. Tại đây, tôi được ông Lâm Hữu Đào, cán bộ văn hóa xã Chuyên Mỹ khẳng định: “Câu chuyện về cụ Chánh Đúc là có thật. Nghe nói cụ ấy giàu có lắm”. Thế rồi chẳng quản đường sá, ông Đào dẫn tôi đến gặp ông Nguyễn Văn Lộc, 73 tuổi, cháu gọi cụ Chánh Đúc là ông cậu (bà nội ông Lộc là chị gái của cụ Chánh Đúc). Thế rồi ông Lộc kể cho tôi nghe câu chuyện liên quan đến ngôi mộ phát và sự giàu có của cụ Chánh Đúc.
Nhờ ngôi mộ kết phát mà cụ Chánh Đúc và con cháu trở nên giàu có. Ảnh minh họa.
Ông nội cụ Chánh Đúc không rõ tên gì, sinh ra trong một gia đình nghèo, không rõ lai lịch, gốc tích ở đâu. Chỉ biết rằng họ là những người hiền lành, chất phác và lương thiện. Lớn lên, ông nội cụ Chánh Đúc theo học nghề thợ xẻ. Tay nghề của ông nổi tiếng khắp vùng. Mỗi khi làng hết việc, ông mang đồ nề, dụng cụ đi đến các nơi khác làm thuê, lấy tiền về nuôi cha mẹ, vợ con. Mỗi chuyến đi như thế, có khi cả tháng, thậm chí vài tháng ông mới về nhà. Và trong mỗi chuyến đi ấy, ông nội cụ Chánh Đúc không quên mang theo chiếc hộp đựng thuốc lào được khảm trai tinh xảo. Chiếc hộp này được coi là “vật bất ly thân” của ông. “Chỉ cần nhìn chiếc hộp đựng thuốc lào ấy, con cháu, người làng nhận ra ngay. Bởi kỹ xảo khảm trai tuyệt đỉnh ấy chỉ người đạt trình độ nghệ nhân nơi đây mới tạo thành và nó còn là “biểu tượng” khi đó của làng về kỹ xảo khảm trai”, ông Lộc chia sẻ.
Lần ấy, ông nội cụ Chánh Đúc đi mãi không thấy về nhà. Vợ con, người thân của ông đi dò hỏi khắp nơi nhưng không biết tung tích ở đâu. Ông còn sống hay đã chết... không một ai biết. Một thời gian sau, tình cờ, con cháu của ông gặp “vật bất ly thân” kia. Hôm ấy, làng vào ngày mùa, ngoài đồng lúa chín vàng rực rỡ, nếu không gặt nhanh, thóc sẽ rụng. Cực chẳng đã, gia đình người cháu của cụ Chánh Đúc mới phải tìm thợ. Khi đám thợ gặt ngồi nghỉ ngơi tại đầu ruộng, một người thợ gặt liền bỏ trong túi hộp đựng thuốc lào ra hút. Nhìn chiếc hộp được chạm khắc công phu, đẹp đẽ ấy, người cháu của cụ Chánh Đúc ngờ ngợ. Người ấy liền mời người kia đến nhà cụ Chánh Đúc nói chuyện.
Vừa nhìn thấy vật, cha cụ Chánh Đúc nhận ra ngay “vật bất ly thân” của người bố thất lạc bao năm. Theo lời kể của người thợ gặt, cách đó mấy năm, có một người đàn ông ăn mày đi qua vùng đất thuộc Khoái Châu (Hưng Yên). Về đến đây, người này vào làng ăn xin và làm thuê cho dân làng. Nhìn thấy hộp thuốc đẹp quá, ông thợ gặt ngỏ lời xin, người đàn ông nọ tặng luôn. Trời tối, người đàn ông nọ ra điếm canh đê xin ngủ nhờ để sáng mai về sớm. Tuy nhiên, sáng ngày hôm sau, người đàn ông nọ bị ốm và chết. Thương cảm, dân làng gọi nhau mang người đàn ông nọ đi chôn. Mọi người bó ông trong một manh chiếu cũ, khiêng ra đồng để chôn. Vừa đi được một đoạn, mây đen kéo đến kín trời, mưa gió nổi lên. Những hạt mưa to hất xối xả vào mặt đoàn người đưa tang khiến bước chân họ siêu vẹo trên con đường đất lồi lõm, trơn trượt. Cố thêm được một đoạn, mọi người bảo nhau đặt tạm người chết xuống cái hố nhỏ ven đường, sáng mai sẽ ra mang đi chôn.
Sáng hôm sau, khi dân làng đến nơi, cái hố trâu đằm ven đường, nơi đặt người ăn mày đã bị mối đùn lên thành một ngôi mộ lớn. Nhìn ngôi mộ, dân làng bảo nhau, đây là ngôi mộ kết. Bên trong ngôi mộ này có tơ hồng quấn quanh người chết. Ngôi mộ này chỉ có thể để nguyên, nếu cải táng, con cháu người này sẽ mất lộc. Còn nếu để nguyên cho ngôi mộ “tự lớn”, con cháu người này được hưởng sự giàu sang và vinh hoa, phú quý muôn đời.
Kể đến đây, ông Lộc bảo: “Tôi đã từng sang thắp nhang ngôi mộ tổ ấy. Ngôi mộ ấy rất lớn, to gấp mấy lần so với những ngôi mộ khác. Ngay từ thời cụ Chánh Đúc, ngôi mộ ấy cũng đã to như thế. Hiện nay khu đất có ngôi mộ ấy thuộc sự quản lý của con cháu cụ Chánh Đúc. Bởi sau cái ngày gặp người thợ gặt kia, cụ Chánh Đúc đã sang tận nơi mua khu đất ấy rồi thuê người trông nom, chăm sóc”.
Sự giàu có của một dòng họ
Từ khi có mộ phát, con cháu người ăn mày ăn lên làm ra, chẳng mấy trở thành người giàu có nổi tiếng khắp vùng. Sự giàu có trên có phải nhờ được lộc trời từ ngôi mộ phát? Theo lời kể của một số người dân làng thôn Chuôn Trung, Chuyên Mỹ, thời điểm ông nội cụ Chánh Đúc chết, ngôi mộ được ăn lộc trời, trở thành mộ kết, từ một gia đình nghèo khó, gia đình cụ Chánh Đúc có của ăn, của để. Đặc biệt đến thời cụ Chánh Đúc, sự giàu có ấy nổi tiếng khắp tổng.
Đưa tay chỉ về phía cánh đồng trước mặt, bà Thanh (65 tuổi, xã Tân Dân, Phú Xuyên, Hà Nội) bảo: “Cả cánh đồng thẳng cánh cò bay này trước kia là của cụ Chánh Đúc hết đấy. Cụ ấy giàu lắm”. Rồi bà Thanh bảo: Theo lời kể của các cụ cao niên trong làng, nhà ở của cụ Chánh Đúc vô cùng rộng lớn, tráng lệ và nguy nga. Trong nhà cụ có hàng chục người ở để trông nom, dọn dẹp, lau chùi nhà cửa. Bữa ăn của cụ toàn “sơn hào, hải vị” được mua từ khắp nơi về. Mỗi khi cụ thức giấc, có người đến tận giường bưng cốc cho cụ nhổ nước bọt, người bưng thau nước ấm, người cầm khăn mặt... Mỗi lần đi xa, cụ cho hàng chục người theo hầu, hộ giá... Có thể nói, cụ là “ông vua nhỏ” ở vùng cụ cai quản (cụ làm Chánh tổng).
Dẫn tôi ra trường tiểu học của xã Chuyên Mỹ, ông Lâm Hữu Đào bảo: “Cả khu này ngày xưa là nơi vui chơi, giải trí, ăn uống của cụ Chánh Đúc. Đây cũng là nơi cụ Chánh Đúc đón các quan lớn trên huyện về. Những cái cây cổ thụ kia là dấu tích về nơi nghỉ dưỡng của cụ Chánh Đúc đấy. Những cái cây này được cụ ấy trồng mà”. Theo lời kể của ông Đào, xưa kia nơi đây là một cái hồ hình bán nguyệt lớn. Ở giữa hồ là một mặt phẳng, trải được mấy cái chiếu để cụ Chánh Đúc cùng mọi người ra đó chơi cờ, luận bàn công việc. Trên bờ là những căn phòng dành để ăn uống, nghỉ ngơi... Có thể nói, khu vui chơi, nghỉ dưỡng thời xưa của cụ Chánh Đúc được ví ngang ngửa với những khu resort hiện đại ngày nay. Bởi số lượng các quan từ nơi kéo về ăn chơi, nghỉ dưỡng rất đông. Hầu như ngày nào cụ Chánh Đúc cũng đón đoàn khách hàng chục người đến ăn, nghỉ, chơi không mất tiền... Ngoài ra, cụ Chánh Đúc cũng hay mang tiền dâng vào đình, chùa hoặc cho tiền sửa sang các nơi công cộng...
Ở miền Nam, người ta ví “giàu như công tử Bạc Liêu” thì ở đây người ta cũng ví sự giàu có của những người sau này với cụ Chánh Đúc. Cụ giàu có, biết hưởng thụ là vậy nhưng lại là một người vô cùng thương người. Cụ thường cho thuê ruộng với giá rất rẻ; nếu không may năm đó mất mùa, cụ sẵn sàng cho nợ đến sang năm trả hoặc trả dần dần. Không bao giờ cụ thúc ép người nghèo. Hay mỗi khi xảy ra hạn hán, mất mùa, dân nghèo đói khổ, cụ lại sai người nấu cháo, phát chẩn hoặc cho vay mượn thóc gạo... Chính vì thế, cụ được nhân dân khắp vùng yêu mến.
Đời cụ Chánh Đúc giàu, đời con cháu của cụ cũng giàu. Theo lời chia sẻ của ông Lộc, sau khi chiến tranh loạn lạc xảy ra, cụ mất, con cháu cụ di tản vào Nam, thi thoảng mới về nhưng ai cũng thành đạt và khá giả. Một số người cháu của cụ còn sang nước ngoài sinh sống. Có thể nói dù ở đâu, con cháu của cụ Chánh Đúc vẫn rất giàu có, sung sướng, đến nay đã là đời thứ 4, thứ 5 rồi. Nhưng tất cả sự giàu có ấy liên quan đến mộ kết cũng chỉ là tin đồn vô căn cứ mà thôi.
Lý giải về sự giàu có của cụ Chánh Đúc, ông Lộc bảo: “Tôi không biết sự giàu có ấy có phải bắt nguồn từ ngôi mộ phát của ông nội cụ Chánh Đúc không. Chỉ biết rằng từ đời cụ Chánh Đúc làm ăn luôn luôn gặp may mắn, phát đạt (ngày trước cụ Chánh Đúc làm cai thầu, nạo vét kênh mương, hồ và xây dựng...). Ngày nay, con cháu cụ cũng rất giàu sang, phú quý, ai cũng làm giám đốc này kia...”. |