(ĐSPL) - Khi cầm trong tay gần 40 tỷ đồng của đối tác mua thẻ cào điện thoại, Bảo đã đóng cửa công ty và trốn "biệt tăm"
Theo báo Vnexpress, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế và Tham nhũng (PC46) Công an TP HCM) đêm 12/12 bắt Trần Quốc Bảo (29 tuổi, giám đốc Công ty TNHH Dịch vụ viễn thông tin học Miền Nam) theo lệnh truy nã về hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khi hắn lẩn trốn ở Đà Nẵng.
Bảo bị bắt về hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản . Ảnh: C.A |
Như báo Công an nhân dân thông tin trước đó, Công ty TNHH Dịch vụ Viễn thông Tin học Miền Nam được Sở Kế hoạch & Đầu tư TP HCM cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp ngày 24/6/2011. Thực tế sau khi thành lập, công ty này chỉ hoạt động cầm chừng.
Ngày 12 và 14/11/2011, cơ quan CSĐT Công an quận Gò Vấp đã nhận 6 đơn tố cáo của các cá nhân: Võ Thị Tố Trinh, Đặng Xuân Thiện, Dương Đình Bình, Tôn Nữ Khánh Tiên, Phan Văn Dũng, Nguyễn Minh Tuấn (ngụ tại tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Bình Thuận) tố cáo Bảo thông qua việc mua bán thẻ cào (card) điện thoại di động của các hãng, chiếm đoạt tiền đặt cọc lên đến gần 40 tỷ đồng của các cá nhân này rồi bỏ trốn.
Quá trình điều tra, cơ quan CSĐT đã đủ căn cứ xác định, Bảo đã chiếm đoạt của những người này với tổng số tiền hơn 38 tỷ đồng.
Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009: 1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm: a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; đ) Tái phạm nguy hiểm; e) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này. Chú ý: Thông tin pháp lý trong hộp nội dung này được trích từ nguồn trên mạng Internet, nên chỉ mang tính tham khảo |
(Tổng hợp)