Theo thỏa thuận giữa hai người, "nhân vật bí ẩn" này sẽ chịu trách nhiệm kiếm tiền, còn Bill Gates có trách nhiệm... tiêu tiền, Nhật báo phố Wall tiết lộ.
Larson thích mặc quần bò Levi's và áo thun hồng thẫm. Ảnh: WSJ |
Trong buổi tiệc tối của quỹ từ thiện Bill và Melinda Gates được tổ chức vào tháng Hai, có một khách mời danh dự đã được đích thân Bill Gates nâng li và dành tặng những lời có cánh: Michael Larson.
Nhà đồng sáng lập công ty Microsoft khẳng định Larson là một nhân viên ông “hoàn toàn tin tưởng... Melinda và tôi được tự do theo đuổi khát khao xây dựng một thế giới khỏe mạnh và một nền giáo dục tốt hơn là nhờ những việc Larson làm”. Vì có Larson mà ông – người giàu nhất hành tinh – có thể ngủ yên mỗi đêm.
Người kiếm, người tiêu
Cơ chế hợp tác giữa hai người khá đơn giản: Larson kiếm tiền, Bill mang tiền đó đi làm từ thiện. Vợ chồng Bill Gates đã lên kế hoạch quyên góp 95\% tài sản cho quỹ - tổ chức từ thiện lớn nhất thế giới.
Tính từ năm 1994, Larson – cố vấn 54 tuổi, đã điều hành cả đế chế đầu tư của Bill, hầu hết qua một công ty có tên Cascade Investment.
Rất ít người biết về quy mô tài sản của Bill hay chiến thuật của Larson, đây cũng là chủ đích của cặp đôi này.
Ngựa ăn cỏ trong trang trại tại Wyoming của Cascade. |
Nhiều dự án bất động sản trong vòng bí mật của Bill, từ khách sạn 5 sao Charles Hotel tại Cambridge, bang Massachute, cho đến trang trại diện tích 490 mẫu tại Wyoming của chủ đất có tên William F. "Buffalo Bill" Cody, đều được đứng tên giả để gây khó khăn cho việc truy nguồn gốc về Bill Gates.
Đến cả nhân viên truyền thông của khách sạn Charles Hotel cũng thừa nhận cô không hề biết việc Gates là đồng chủ sở hữu của khách sạn này.
“Với mức độ ‘nổi như cồn’ của Bill Gates, thực sự Larson quá tài tình khi không ai biết về Cascade”, cô nói.
Còn trang trại tại Wyoming là một vụ đặt cược của Cascade khi giá bất động sản hồi phục nhanh chóng sau vụ khủng hoảng tài chính năm 2008.
Công ty này cũng sở hữu 100.000 mẫu đất nông nghiệp tại California, Illinois, Iowa, Louisiana và nhiều bang khác, diện tích rộng bằng 7 khu thượng lưu Manhattan ghép lại.
“Người canh giữ Gates”
Trụ sở công ty Cascade đặt ở một tòa nhà không tên tuổi tại ngoại ô Seattle. Larson bảo vệ sếp đến nỗi ông được đặt biệt danh là “Gateskeeper” (người canh giữ Gates), một đồng nghiệp cho biết.
Tất cả nhân viên rời công ty đều phải ký vào một thỏa thuận tối mật, đồng ý không tiết lộ thông tin về Cascade.
Ngoài Cascade - công ty nắm giữ hầu hết tài sản cá nhân của tỷ phú, Larson cũng giám sát khoản quyên góp 41 tỷ USD trong quỹ từ thiện Bill & Melinda Gates Foundation.
Công ty Cascade chưa bao giờ công khai kết quả kinh doanh, nhưng một nguồn thân cận cho biết lợi nhuận hàng năm leo dốc rất nhanh.
Nhờ chiến lược khá cẩn trọng của Larson, khoản lỗ Cascade phải chịu vào đỉnh điểm cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 thấp hơn nhiều so với mức sụt giảm 27\% trung bình của các công ty thuộc nhóm chỉ số Dow Jones.
Thành lập Microsoft vào năm 1975, Bill sở hữu 45\% cổ phần sau khi Microsoft niêm yết vào năm 1986. Lượng cổ phần này hiện có giá khoảng 150 tỷ USD, chưa kể cổ tức. Cổ phiếu Microsoft đã tăng lên gấp gần 3 lần chỉ tính riêng trong 5 năm qua.
Tuy nhiên, Gates đã bán gần 40 tỷ USD giá trị cổ phiếu Microsoft từ năm 1994 nhằm đa dạng hóa đầu tư. Quỹ từ thiện Gates cũng đã quyên góp 30 tỷ USD phục vụ mục đích nhân đạo.
Bill Gates luôn từ chối bình luận về mối quan hệ với Larson. |
Larson và Gates luôn từ chối bình luận về quan hệ giữa hai người, nhưng những nguồn tin thân cận cho biết mối quan hệ này đã phát triển thành một sợi dây mang ý nghĩa sống còn đối với quỹ từ thiện của tỷ phú.
Tài sản ròng của Gates đã bành trướng nhanh chóng từ 5 tỷ USD lên 82 tỷ USD sau khi ông tuyển dụng cựu quản lý quỹ trái phiếu này, và trao đặc quyền thực hiện các khoản đầu tư mà ông cho là hợp lý.
Những khoản đầu tư sinh lãi lớn được Larson thực hiện dưới tên của Gates, cũng như hoạt động bán cổ phiếu Microsoft đã giúp gia đình Gates quyên góp một khoảng khổng lồ vào quỹ từ thiện Gates Foundation, đồng nghĩa rằng quỹ này sẽ có thêm nguồn lực để đầu tư vào sứ mệnh đẩy lùi bệnh tật và cải thiện giáo dục tại các nước đang phát triển.
Ngoài ra, Cascade cũng sở hữu hơn 24 tỷ USD cổ phiếu trong các công ty như Tập đoàn đường sắt quốc gia Canada, công ty AutoNation và công ty Republic Services, riêng cổ phiếu của Tập đoàn đường sắt quốc gia Canada đã nhảy vọt 207\% chỉ trong 5 năm qua. Điều này cho thấy triết lý đầu tư thể hiện sự thấu hiểu giá trị và tính kiên nhẫn của Larson, rất giống với Warren Buffet, một người bạn thân của Gates.
Trong khi hầu hết tiền của Gates đổ vào chứng khoán, Larson vẫn dành ra một khoản nhỏ để đầu tư vào cổ phần các công ty tư nhân và nhiều dự án đầu tư mạo hiểm khác. Quy mô các khoản cược trên thị trường trái phiếu đang được thu hẹp trong thời gian gần đây.
Lúc nào Larson cũng duy trì phân phối 10 tỷ USD tài sản cho khoảng 25 nhà quản trị tiền tệ thuê ngoài, một cách để kích thích các ý tưởng đầu tư mới. Nhưng những người này không biết gì về quy mô cũng như chi tiết danh mục đầu tư của Gates.
Có một điểm khá thú vị là Gates hiếm khi đầu tư vào các lĩnh vực liên quan tới công nghệ. Tính đến ngày 30/6, ông chỉ sở hữu 3,6\% cổ phần trong Microsoft, trị giá gần 14 tỷ USD theo giá cổ phiếu niêm yết ngày 18/9.
Mỗi tháng, Gates xem xét các khoản đầu tư một lần. “Cuối cùng, mọi quyết định đều thông qua Larson”, Mike Jackson, Chủ tịch kiêm CEO công ty AutoNation, một người bạn của Larson cho biết. Larson là giám đốc của công ty bán lẻ xe hơi này, Cascade sở hữu 14\% cổ phần trong AutoNation, trị giá 841 triệu USD.
Cục cằn và kỹ tính
Gates quyết định thu Larson về trướng sau khi Nhật báo phố Wall đưa tin vào năm 1993, cho biết nhà quản trị tiền tệ hồi đó của tỷ phú đã “dính” tội gian lận ngân hàng. Gates là bạn thân của ông ta và biết về sự việc, nhưng đã lập tức tìm người thay thế sau khi mọi chuyện vỡ lở.
Nhân viên của Larson cho biết thỉnh thoảng ông khá cục tính. |
Sau một quá trình sàng lọc khắt khe, nhà tuyển dụng đã mời Larson đến gặp Bill Gates. Thời ấy, Larson làm việc cho một công ty mua bán sáp nhập và điều hành quỹ trái phiếu. Hai người lập tức cảm thấy hợp nhau, Gates bị ấn tượng bởi tính cách tự tin nhưng khiêm tốn của Larson.
Sau khi nhận việc, Larson quyết định về “ở ẩn”. Theo ông, đây là cách tốt nhất để duy trì vị trí chuyên viên đầu tư cao cấp sau khi uy tín của người tiền nhiệm đã bị truyền thông hủy hoại.
Đã có gia đình và ba con, Larson thích mặc quần bò Levi's và áo thun hồng thẫm. Một số nhân viên và cựu nhân viên cho biết thỉnh thoảng ông khá cục cằn và kỹ tính, thậm chí ông từng tận tay vẽ sơ đồ chỗ ngồi cho một buổi tiệc thường niên của Cascade.
Nhân viên của Cascade luôn được yêu cầu thực hành tiết kiệm. Mặc dù Gates sở hữu gần 50\% trong chuỗi khách sạn cao cấp Four Seasons thông qua Cascade, ban lãnh đạo Cascade vẫn phải đặt phòng tại những khách sạn rẻ tiền hơn, kể cả trong các chuyến công tác liên quan đến Four Seasons.
Bể bơi trong trong khách sạn cao cấp Four Seasons của Cascade. |
James Floyd – Giám đốc đầu tư tại trường nghệ thuật Claremont McKenna – nơi Larson tốt nghiệp vào năm 1980, kể rằng Larson “thẳng tính đến bực mình, nhưng theo một cách tích cực. Khi làm việc với anh ấy, bạn biết năng lực thực sự của mình đến đâu”.
Công ty Cascade có gần 100 nhân viên, không thấm tháp vào đâu so với 1.200 nhân viên tại quỹ Gates Foundation. Larson thích tuyển dụng những sinh viên vừa tốt nghiệp từ trường Claremont McKenna.
Theo quy định, nhân viên không được sử dụng các mạng xã hội như Facebook, Twitter, LinkedIn… trong giờ làm việc, và tuyệt đối không được gửi email công ty tới các địa chỉ không phải là đối tác kinh doanh.
Dinh thự có tên European villa rộng 1.115 m2 tại đảo Jupiter Island, Florida, được Larson "để mắt". |
Nói về các thương vụ thành công của Larson, và kể đến năm 2009, khi Larson cử một nhân viên 25 tuổi đi đàm phán mua lại dinh thự hàng triệu USD, thuộc sở hữu của một người sắp phá sản dưới tay của “siêu lừa” Bernard L. Madoff, qua đó chớp cơ hội “mặc cả” giá nhà.
Theo chỉ dẫn của sếp, nhân viên nói anh này làm cho một công ty có tên Front Range Investment, và không đề cập gì tới Cascade hay Bill Gates.
Anh ta đã “ép” giá ngôi nhà thành công xuống còn 5 triệu USD, trong khi giá trị thị trường vào năm 2008 là 12 triệu USD.