Đây là một nội dung rất quan trọng, đánh dấu những thành quả bước đầu của quá trình xây dựng mô hình A-CDM tại các Cảng hàng không của Việt Nam.
A-CDM được định nghĩa là Quy trình phối hợp giữa các đơn vị để ra quyết định tại cảng hàng không, sân bay; đồng thời A-CDM cung cấp một nền tảng phần mềm chung để các đơn vị phối hợp, chia sẻ thông tin, dữ liệu phục vụ công tác ra quyết định tại cảng hàng không, sân bay.
Theo đánh giá của Cục Hàng không Việt Nam, là hai Cảng hàng không quốc tế lớn nhất cả nước với sản lượng chuyến bay đều đạt trên 100 ngàn lượt chuyến/năm, thế nhưng các quy trình ở sân bay Nội Bài và Tân Sơn Nhất hiện tại chưa tối ưu hiệu quả khai thác.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do thông tin chưa thông suốt giữa các đơn vị, mỗi đơn vị thực hiện các quy trình riêng rẽ nên chưa tối ưu hóa các tài nguyên.
Bên cạnh đó, việc khai thác theo nguyên tắc “đến trước, phục vụ trước” dẫn đến nhiều trường hợp xáo trộn thứ tự khởi hành; nhiều tàu bay phải xếp hàng chờ đến lượt cất cánh, khó có thể kiểm soát được thời gian lăn; giữa hãng hàng không, đơn vị phục vụ mặt đất, cảng hàng không, đơn vị quản lý bay chưa có phương án tối ưu để chia sẻ thông tin về quá trình tàu bay quay đầu cũng như trạng thái hoãn chuyến theo thời gian thực…
Cục Hàng không Việt Nam cho biết: “Công tác phối hợp ra quyết định tại Cảng hàng không (A-CDM) với quy trình chặt chẽ, với nền tảng thông tin thông suốt, với sự phối hợp chia sẻ thông tin theo quy trình thống nhất và đồng bộ giữa các mắt xích chắc chắn giải quyết trọn vẹn các tồn tại của phương thức hiện hành”.
Đối với hành khách, rõ ràng khi bay qua các Cảng hàng không có hệ thống A-CDM sẽ được trải nghiệm những chuyến bay có tỷ lệ đúng giờ cao, hạn chế những tình huống bay vòng để chờ hạ cánh, giảm thiểu các tình huống tàu bay dừng chờ lâu trên đường băng, đồng thời công tác phục vụ hành lý, hàng hóa của chuyến bay sẽ được phục vụ tốt hơn,… do các chuyến bay được lập kế hoạch tốt, có thông tin rõ ràng, được tối ưu hóa các khâu trong quá trình khai thác nhờ A-CDM.
Ví dụ trong trường hợp sân bay đến mật độ bay quá dày hay thời tiết dự báo không thuận lợi, thay vì chuyến bay khởi hành theo kế hoạch và bay vòng trên trời để chờ tiếp thu thì sân bay đến (có A-CDM) thông báo giờ cất cánh tính toán (Calculated Take off Time - CTOT), theo đó điều chỉnh lại giờ cất cánh cho phù hợp, khách chỉ phải chờ tại nhà ga, và khi có CTOT, tàu bay khởi hành theo thời gian mới, không phải bay vòng chờ tại nơi đến, tiết kiệm nhiên liệu cho hãng, đem lại những trải nghiệm thuận tiện hơn cho hành khách khi bay.
Được biết, theo kế hoạch, giai đoạn 1 được đưa vào thử nghiệm ngay trong tháng 3/2023. Cụ thể, Cảng HKQT Nội Bài sẽ triển khai thử nghiệm từ 6/3 đến ngày 30/4. Cảng HKQT Tân Sơn Nhất triển khai từ ngày 27/3 đến 27/4.
Thông tin với PV, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam cho biết để chuẩn bị cho bước đưa vào khai thác thử nghiệm thực tế, Tổ triển khai đề án A-CDM của Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam đã có nhiều năm học tập, trao đổi kinh nghiệm với các chuyên gia nước ngoài. Sau đó tổ chức nhiều hội thảo đào tạo cho các thành phần tham gia trực tiếp phục vụ chuyến bay.
Cảng HKQT Nội Bài và Tân Sơn Nhất đã tổ chức nhiều đợt Hội thảo đào tạo về A-CDM đến đông đảo các đơn vị trong dây chuyền phục vụ chuyến bay (phi công, kiểm soát viên không lưu, đơn vị phục vụ mặt đất, hãng hàng không…), nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết để phối hợp thực hiện A-CDM; tham gia cùng đoàn công tác của Tổ triển khai đề án A-CDM của Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam đi khảo sát thực tế các sân bay nước ngoài đã áp dụng thành công mô hình A-CDM như Sân bay quốc tế Changi – Singapore và Sân bay Brussels – Vương quốc Bỉ.
Để giảm thiểu rủi ro, đảm bảo việc đầu tư hiệu quả và thành công của dự án, ACV đã báo cáo Cục Hàng không Việt Nam và được chấp thuận chia Đề án triển khai A-CDM tại Cảng HKQT Nội Bài và Cảng HKQT Tân Sơn Nhất thành 02 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: áp dụng phần mềm tự phát triển nội bộ ACDM Portal (do ACV tự phát triển) để sử dụng nền tảng chia sẻ thông tin và làm quen với mô hình A-CDM cho các đơn vị liên quan, đồng thời nhằm kiểm tra, điều chỉnh lại quy trình phối hợp giữa các Đơn vị trong việc áp dụng mô hình A-CDM tại Cảng HKQT Nội Bài và Cảng HKQT Tân Sơn Nhất trước khi triển khai Giai đoạn 2 (đầu tư mua sắm hệ thống A-CDM hoàn chỉnh).
Giai đoạn 2 (đầu tư mua sắm hệ thống A-CDM hoàn chỉnh): sẽ được cân nhắc thực hiện trên cơ sở kết quả đánh giá thực hiện thành công của Giai đoạn 1 và đánh giá tổng thể các yếu tố ảnh hưởng đến dự án, sau khi toàn bộ quy trình, hệ thống đã được chuẩn hóa và được phê duyệt, nhằm mục đích giảm thiểu rủi ro và tránh lãng phí khi thực hiện công tác mua sắm.
Nguyễn Lâm