Vừa qua Báo Đời sống và Pháp luật nhận được đơn thư phản ánh của 02 người dân trú tại thôn Siêu Quần, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội về việc tại địa phương có diện tích đất công (khoảng 77m2), giáp ranh với chùa Phúc Sinh đã và đang bị một cán bộ xã chiếm dụng trái phép. Hành vi chiếm dụng này có sự bao che của một số lãnh đạo khác tại xã.
“Tự nhiên” đất “đẻ” thêm 77m2 !
Theo đơn thư, người có hành vi chiếm dụng trái phép khu đất nêu trên là ông N.T.T – Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Tả Thanh Oai. Việc chiếm dụng xảy ra trong quá trình thực hiện chủ trương “Dồn điền đổi thửa” (DĐĐT) tại địa phương.
Bà L.T.B và bà N.T.T (hai người gửi đơn đến Báo Đời sống & Pháp luật) cho biết: Trước khi tiến hành việc DĐĐT, gia đình ông N.T.K (bố đẻ của ông N.T.T) đã đủ ruộng đất (thậm chí còn thừa vì bản thân ông K là công nhân nên không có ruộng), nhưng ông N.T.T vẫn cố tình lạm dụng chức vụ quyền hạn của mình, sử dụng đất công ích để đối trừ. Hai độc giả cho rằng, sai phạm thể hiện ở hai điểm: Một là đã đủ ruộng nhưng vẫn tiến hành việc đối trừ và hai là việc tự ý sử dụng đất công ích để đối trừ, ai thiếu ruộng cũng lấy đất công để dối trừ thì còn đâu đất để xây dựng các công trình công ích phục vụ nhân dân? Cụ thể, diện tích đất gia đình ông K được sử dụng tại khu vực Đội 12, thôn Siêu Quần, xã Tả Thanh Oai từ những năm 1992 (2001) chỉ là 103m2 . Nhưng sau thời gian DĐĐT, lại thấy diện tích đất này đã được “đẻ” thêm 77m2 thành 180 m2, điều này được chính độc giả - những người dân sống tại địa phương tự nhận thấy “sự phình” ra bất thường của khu đất.
Bà Nguyễn Thị Bích Liên – Trưởng phòng địa chính xã |
Theo quan sát của PV, khu đất được cho là bị chiếm dụng trái phép hiện được quây hàng rào thép ngăn cách, là một khu vườn có trồng một số cây ăn quả lâu năm và rau xanh, có chuồng trại nhỏ và hiện cũng đang chăn nuôi chó, gà , hàng ngày vẫn thấy có người qua lại chăm sóc. Theo tìm hiểu của PV, được biết, người đang trực tiếp quản lý, sử dụng và khai thác diện tích đất trên là gia đình ông N.T.K (Bố đẻ của ông N.T.T).
Trao đổi và làm việc với ông N.T.T – Người bị phản ánh, ông T cũng thừa nhận với PV rằng: Gia đình thân phụ của ông là người quây hàng rào thép quanh khu đất và cũng là người đang quản lý, sử dụng và khai thác khu đất. Tuy nhiên, ông cho rằng, khu đất này gia đình ông được chia từ những năm 1992, không liên quan gì tới DĐĐTvà tổng diện tích đất được chia từ thời điểm đó đã là 180m2.
Bà B và bà T vẫn khẳng định rằng, diện tích đất gia đình ông K được chia từ những 1992 chỉ có 103 m2, điều này thực tế cũng có thể nhìn thấy và cũng được thể hiện tại cuốn Sổ chia đất của Trưởng thôn thôn Siêu Quần năm (2001), và 103m2 này, cũng có nguồn gốc từ đất công ích 5%. Nhận thấy sự sai phạm trên, hai bà, đã có đơn báo cáo sự việc và tố cáo hành vi chiếm dụng đất trái phép của ông N.T.T gửi tới UBND xã Tả Thanh Oai ngày 4/5/2016. Sau 15 ngày kể từ ngày nộp đơn, công dân có nhận được văn bản số 75/UBND ngày 19/5/2016 của UBND xã Tả Thanh Oai về việc trả lời đơn của công dân. Tại văn bản này, UBND xã khẳng định: “Năm 1992, gia đình ông N.T.K (bố đẻ ông N.T.T) có được chia diện tích đất 180m2 đất nông nghiệp tại khu đất thùng đào, hố đấu tại máng chảy giáp chùa, ranh giới phía đông giáp ông Ninh Nhớ, phía tây giáp gia đình bà Phú Tú, phía Bắc giáp máng dòng chảy, phía Nam giáp ngõ 40 hiện nay”.
Khu đất bị chiếm dụng |
Về văn bản giải quyết đơn thư này, những người tố cáo cho rằng, kể từ ngày nộp đơn tố cáo đến ngày nhận được văn bản trả lời đơn thư của UBND xã, họ chưa từng nhận được bất kỳ văn bản/thông báo nào về việc tiếp nhận, thụ lý đơn thư và thành lập tổ/đoàn xác minh nội dung đơn tố cáo, họ cũng không được mời lên UBND xã để làm việc một cách chính thức trong quá trình xác minh giải quyết vụ việc. Hơn nữa, tại văn bản này có kết luận về kết quả xác minh: Khẳng định gia đình ông K được chia diện tích đất 180m2 từ năm 1992, nhưng không hiểu kết luận này được xác minh như thế nào? Từ ai? Từ đâu? Có văn bản hay biên bản nào thể hiện việc xác minh này? và việc xác minh được dựa trên hồ sơ đất đai đang được lưu trữ ở xã ra sao? tuyệt nhiên không hề được dẫn chiếu hoặc đính kèm vào văn bản trả lời công dân một cách thuyết phục.
Cán bộ “đua nhau chuyền bóng trách nhiệm”
Quá trình xác minh đa chiều vụ việc, PV có buổi tiếp xúc và làm việc với các ông, bà là lãnh đạo tại UBND xã Tả Thanh Oai.
Trao đổi với PV, ông Nguyễn Tiến Hưng – chủ tịch UBND xã cho biết: “Hiện tôi đang tiến hành các thủ tục thôi việc, mọi việc tiếp xúc báo chí và phát ngôn của ủy ban, tôi giao lại cho ông Lưu Qúy Hợi – Phó chủ tịch UBND xã giải quyết”.
Theo sự giới thiệu và phân công của ông Hưng, PV đã tìm gặp và làm việc với ông Hợi tại phòng Phó chủ tịch UBND xã phụ trách kinh tế - xây dựng, ông Hợi cho biết: ủy ban đã từng nhận được đơn thư tố cáo của công dân thôn Siêu Quần về sự việc, nội dung tố cáo, phản ánh rất dễ gây ảnh hưởng lớn tới uy tín của cán bộ lãnh đạo xã bị phản ánh, vì vậy ông thể hiện mong muốn sự việc sớm được làm sáng tỏ, minh bạch và được xác minh đa chiều trước khi được thông tin để bảo vệ uy tín cho các đồng chí lãnh đạo. Khi được hỏi các câu hỏi về tiến trình tiếp nhận, thụ lý và giải quyết đơn thư của công dân cũng như hồ sơ xác minh về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất của người bị tố cáo, ông Hợi nói ông là PCT xã nhưng không trực tiếp xử lý, giải quyết vụ việc, hơn nữa đây là các vấn đề thuộc chuyên môn của địa chính, do vậy theo chỉ đạo của chủ tịch UBND xã, ông Hợi đã đề nghị bà Nguyễn Thị Bích Liên – Trưởng phòng địa chính xã làm việc với PV.
Ông Lưu Qúy Hợi – Phó chủ tịch UBND xã Tả Thanh Oai |
Làm việc với bà Liên, PV có hỏi phỏng vấn một số câu hỏi liên quan tới nội dung vụ việc và căn cứ xác minh giải quyết vụ việc, bà Liên có cung cấp cho PV hai văn bản là văn bản số 99/BC – UBND ngày 11/5/2016 của UBND xã Tả Thanh Oai về kết quả xác minh đơn của công dân và văn bản số 110/BC-UBND ngày 19/5/2016 là báo cáo của UBND xã Tả Thanh Oai gửi UBND huyện Thanh Trì và các ban ngành của huyện về việc giải quyết đơn của công dân nhưng bà từ chối trả lời mọi câu hỏi của PV và cho rằng: Mọi nội dung và vấn đề PV hỏi đều đã được thể hiện rất rõ tại 02 văn bản trên nên bà không trả lời lại nữa. Khi PV đề nghị được cung cấp hồ sơ tài liệu liên quan tới nguồn gốc sử dụng của khu đất và hồ sơ địa chính của địa phương – là chứng cứ khách quan và cũng là một trong các cơ sở quan trọng để UBND xã ra kết luận xác minh về nội dung tố cáo của công dân thì bà Liên thể hiện quan điểm “Không có nghĩa vụ phải cung cấp căn cứ trên nội dung thông tư số 30”. Nhưng Bà Liên không nói rõ cơ sở pháp lý mà bà dẫn chiếu: Thông tư 30 là thông tư gì? Do cơ quan nào ban hành và ban hành thời gian nào? Nội dung thông tư quy định về những vấn đề gì? Căn cứ điều khoản cụ thể nào của Thông tư đã dẫn chiếu để bà Liên cho rằng, bà không có nghĩa vụ phải cung cấp hồ sơ tài liệu về đất đai liên quan tới sự việc cho PV và báo chí?
Trong khi đó, căn cứ Điểm c, khoản 2, Điều 25 Luật Báo Chí năm 2016 quy định: “…Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm cung cấp cho nhà báo những tư liệu, tài liệu không thuộc phạm vi bí mật nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác theo quy định của pháp luật” Được biết, hồ sơ địa chính được lưu trữ tại xã không phải là tài liệu bí mật như quy định. Không hiểu vị trưởng phòng địa chính này, căn cứ vào quy định nào để cho rằng những tài liệu này là tài liệu mật nên có quyền từ chối cung cấp cho PV? Hơn nữa, dù PV đã dẫn chiếu “lệnh” của đồng chí đại diện lãnh đạo cao nhất của UBND xã và đồng chí lãnh đạo cao nhất của HĐND xã (người bị phản ánh) thì bà Liên vẫn một mực “chống lệnh” và từ chối cung cấp. Khoản 1, Điều 7, Nghị định số 09/2017/NĐ – CP ngày 9/2/2017 của Chính phủ quy định về việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí của cơ quan hành chính nhà nước (có hiệu lực ngày 30/3/2017) có quy định rất rõ: “Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước có thể trực tiếp phát ngôn hoặc giao nhiệm vụ cho người phát ngôn của cơ quan hoặc ủy quyền cho người có trách nhiệm thuộc cơ quan hành chính thực hiện phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí …”.
Với việc “chống lệnh” cấp trên và vi phạm quy định của pháp luật báo chí về nghĩa vụ cung cấp thông tin và hồ sơ tài liệu như trên, hành vi của bà Liên là biểu hiện của sự hạn chế trong kiến thức pháp luật về chuyên môn hay là dấu hiệu của sự cố tình che dấu chứng cứ khách quan của sự việc?
Với việc “chuyền bóng trách nhiệm” từ vị chủ tịch UBND xã tới vị trưởng phòng địa chính như trên, dư luận có quyền đặt ra sự nghi ngờ: Có hay không sự thiếu minh bạch trong việc giải quyết nội dung đơn thư tố cáo của công dân? Và Có hay không sự bao che của cán bộ xã trong toàn bộ sự việc tố cáo mà công dân đã phản ánh? Nếu thực sự là minh bạch và trong sạch vậy lý do gì mà không thể công khai hồ sơ địa chính?
PV sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ vụ việc, đồng thời sẽ tiến hành trao đổi, làm việc với các luật sư để làm rõ hơn các vấn đề pháp lý và các quy định của pháp luật có liên quan tới vụ việc cũng như quyền và nghĩa vụ của cán bộ địa chính tại địa phương.
Nguyễn Phương