Tay run run lật tìm lá thư cũ được cất giữ trong ngăn tủ tài liệu cho chúng tôi xem. Sự xúc động hiện ra trên gương mặt hằn sâu vết chân chim của vị đại tá. Với ông và gia đình, sự trở về của lá thư sau 22 năm lưu lạc quả là một điều kỳ diệu.
Hành trình 22 năm 6 tháng của một lá thư
Ngày 6/4/1967, ông viết một lá thư gửi về cho vợ, với sáu trang giấy (khổ chữ lớn), nhờ một chiến sỹ giao liên mang về. Thư gửi từ huyện Trà My (tỉnh Quảng Nam) - căn cứ địa hiểm trở của khu 5 đến Quảng Ngãi - chỉ mất 6-7 ngày đi đường. Nhưng, nó đã lưu lạc qua bên kia nước Mỹ xa xôi, rồi đến tay người vợ sau 22 năm 6 tháng.
Chúng tôi về thôn An Tập Nam (xã Phổ Văn, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi) tìm gặp gia đình đại tá Trần Ngọc Giao, nguyên Chính ủy Lữ đoàn Công binh 270, Quân khu 5. Khi chúng tôi ghé thăm, vị đại tá về hưu đang cần mẫn chăm sóc vườn bí đang ra hoa, còn vợ ông, bà Huỳnh Thị Cúc ngồi bên cạnh trò chuyện cùng chồng.
Đã tuổi 90, hai vợ chồng ông vẫn còn khỏe, khá minh mẫn, miệng cười móm mém, thanh thản, lạc quan giữa cuộc đời, sau những năm tháng biền biệt xa cách suốt hai cuộc kháng chiến. Hằng ngày, hai vợ chồng vẫn tất bật với vài sào rau màu, vui thú cùng đàn gà, chăm sóc từng chậu hoa, cây kiểng ngoài vườn.
Đại tá Trần Quang Giao cùng vợ ôn lại những kỉ niệm cũ. |
Tay run run lật tìm lá thư cũ được cất giữ trong ngăn tủ tài liệu cho chúng tôi xem. Sự xúc động hiện ra trên gương mặt hằn sâu vết chân chim của vị đại tá. Với ông và gia đình, sự trở về của lá thư sau 22 năm lưu lạc quả là một điều kỳ diệu.
Tháng 7/1989, đoàn nhà văn Việt Nam gồm 3 người: Nguyễn Khải, Lê Lựu và Nguyễn Quang Sáng được Trung tâm nghiên cứu về chiến tranh và hậu quả xã hội của chiến tranh Việt Nam tại Mỹ mời sang để giao lưu giữa những cựu binh đã có thời hướng nòng súng vào nhau. Sau mấy ngày hội thảo, đoàn nhà văn Việt Nam được mời đi tham quan phòng trưng bày những hiện vật liên quan đến cuộc chiến tranh Việt Nam tại Trường Đại học Massachusetts.
Vừa bước vào phòng trưng bày, đập vào mắt các vị khách là một bức thư bằng hai thứ tiếng Việt và Anh, được lồng vào khung kính, đặt ở vị trí khá trang trọng. Lá thư gửi cho một người vợ tên Cúc, đề tên người viết là Trần Ngọc Giao. Ai cũng đoán rằng một người lính Mỹ nào đó, đã lấy lá thư này từ balô hay túi áo của Giao sau khi anh hi sinh. Hình ảnh về người vợ với đôi mắt mòn mỏi chờ đợi chồng trở về, cứ hiện lên nhà văn Nguyễn Quang Sáng quyết định chụp lại sáu trang thư.
Khi về nước, ông đã viết bài "Xin đưa hồn anh về Tổ quốc" và kèm theo nội dung lá thư trên báo Công An TP. HCM (số 167 ngày 11/10/1989), với hy vọng người vợ tên Cúc trong lá thư sẽ đọc được.
Sự trở về kỳ diệu...
Nhấp một ngụ chè xanh,ông Giao xúc động kể, cũng từ sự tình cờ, một đồng đội cũ của ông xem tờ báo nhận ra "người liệt sỹ trong thư" chính là thủ trưởng của mình năm xưa, vẫn còn sống. Anh vội đem tới cho ông Giao, kèm theo một câu nói đùa đắc ý: "Mời liệt sỹ dậy xem lá thư cũ". Lúc này ông Giao đang điều trị bệnh dạ dày ở Bệnh viện C TP. Đà Nẵng.
Cầm tờ báo trên tay, ông Giao không thể diễn tả hết niềm xúc động. "Tôi hồi hộp nói với người đồng đội cũ: "Đúng thư tôi viết rồi! Đúng 100%, chỉ sai có ba chữ, có lẽ do hồi đó tôi viết không rõ". Giọng tôi run run, vừa mừng vừa tủi, không thể ngờ rằng sau 22 năm 6 tháng lá thư gửi cho Cúc - người vợ thân yêu lại trở về tận tay tôi qua một bài báo", ông Giao nhớ lại.
Kể đến đây, hai vợ chồng ông Giao mắt rưng rưng, nhìn nhau. Bà Cúc lật tờ báo cũ chỉ cho tôi xem. Dù tuổi đã cao, nhưng bà đọc từng câu, chữ trong đoạn cuối thư không sót một từ. Và có lẽ đối với bà những dòng thư xưa không bao giờ phai nhoà trong ký ức.
Đoạn cuối bức thư, ông Giao khẳng định "...Anh rất thông cảm với nỗi khó khăn của gia đình Cúc ở quê nhà, nhưng bây giờ đành chịu vậy, Cúc cố gắng giải quyết mọi việc gia đình mình cho tốt. Ngày nào kháng chiến thắng lợi, anh sẽ gánh vác một phần cho Cúc đỡ vất vả. Ngày thắng lợi chắc không xa lắm!... Anh mong ngày kết thúc chiến tranh thắng lợi được sống trong tình thương của gia đình và bà con làng xóm... gần 20 năm xa nhà rồi còn gì nữa! Ngày ấy rồi nhất định sẽ đến... Cuối thư, anh gửi đến Cúc tất cả tình yêu thương nhớ của anh".
Năm 1967, Trần Ngọc Giao - khi đó là đại úy tiểu đoàn trưởng đang chiến đấu trên chiến trường khu 5. Trong dịp đi công tác về quê, ông ghé về thăm gia đình, sau đó dẫn đứa con trai duy nhất là Trần Hoàng Triệu (15 tuổi) đi thoát ly với mình. Lúc này, người vợ trẻ khóc hết nước mắt khi phải xa chồng, giờ lại xa con. Nhưng vì đại cuộc, bà Cúc vẫn khích lệ hai cha con lên đường, yên tâm chiến đấu.
Ngày 6/4/1967, ông viết một lá thư nói về tình hình hai cha con để vợ yên tâm và động viên vợ ở quê nhà, lá thư có sáu trang giấy (khổ chữ lớn), nhờ một chiến sỹ giao liên mang về. Thư gửi từ huyện Trà My (tỉnh Quảng Nam) - căn cứ địa hiểm trở của khu 5 đến Quảng Ngãi - chỉ mất 6-7 ngày đi đường, nhưng nó đã lưu lạc qua bên kia nước Mỹ xa xôi. Để rồi tháng 10/1989, nó mới đến tay người nhận - Huỳnh Thị Cúc - sau 22 năm 6 tháng.
Thủy chung một cuộc tình
Đọc lá thư chan chứa tình yêu thương mà ông Giao dành cho người vợ của mình ở quê nhà, khó ai tin, cuộc hôn nhân của ông và vợ không bắt đầu từ tình yêu đôi lứa mà thông qua sự mai mối, dựng vợ gả chồng từ gia đình.
Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, mới học hết lớp 3, Trần Ngọc Giao đã phải nghỉ học. Năm 1945, cách mạng tháng 8 bùng nổ, Phổ Văn cũng như nhiều làng quê khác ở Quảng Ngãi hừng hực khí thế cách mạng. Nhà nhà người người nô nức đi theo kháng chiến. Chàng nông dân hiền lành Trần Ngọc Giao cũng tham gia vào công tác thanh niên ở địa phương được cử làm thầy giáo bình dân học vụ.
Năm đó, ông mới 19 tuổi. Năm 1946, qua mai mối ông được đính ước với bà Huỳnh Thị Kim Cúc. Cho đến lúc đó, ông Giao vẫn chưa hề biết mặt vợ mình. Năm 1948, một năm sau ngày cưới ông Giao xa người vợ trẻ, để gia nhập vào bộ đội, hành quân lên chiến khu V. Khi bà Cúc sinh người con trai duy nhất Trần Hoàng Triệu là đại tá, nguyên Chánh thanh tra Công an tỉnh Quảng Ngãi (nay đã đến tuổi nghỉ hưu), ông cũng không ở bên cạnh vợ.
Kể đến đây, ông lại nhìn vợ và cười hiền. "Tình yêu của ông với bà như thế đó. 67 năm, hạnh phúc bên nhau. Bây giờ đã 90 tuổi mà vẫn sống với nhau thế này, thì còn gì bằng", ông Giao cười nói. Niềm vui của ông bà như được nhân lên khi con cháu đã thành đạt. Vợ chồng ông đang sống một cuộc sống thật bình dị và hạnh phúc bên con cháu.