Ra đi với lý tưởng giải phóng đất nước, người cựu binh trở về Hà Nội với ba lô nặng trĩu những kỷ vật chiến tranh. Thời gian có thể khiến chúng sờn rách nhưng những kỷ niệm về tình đồng đội và dấu vết quân thù thì vẫn luôn hiện hữu trong mỗi món đồ mang theo dấu ấn một thời kỳ lịch sử không thể nào quên...
Đã 45 năm trôi qua kể từ khi cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kết thúc nhưng những ký ức về một thời khói lửa vẫn in hằn trong tâm trí của các cựu binh. Một buổi trưa tháng Sáu nắng như đổ lửa, PV tìm đến nhà cựu binh Lê Xuân Tường (SN 1952) trong một con hẻm nhỏ ở quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) để nghe kể về những ngày khói lửa hào hùng cùng những kỷ niệm sống mãi với thời gian.
Ông Tường từng trong biên chế Trung đoàn 101, sư đoàn 325, chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị. Ngày nhập ngũ ông mới vừa tròn tuổi đôi mươi, sau hơn 3 năm lăn lộn giữa chốn đạn bom, ông Tường trở về với bao hồi ức bi hùng.
Chuyện về đồng đội, chuyện về chiến trường ông đã kể nhiều, hôm nay ông muốn chia sẻ với chúng tôi những ký ức về những kỷ vật thời chiến.
Quân dụng thành “đồng đội” tri kỷ
Ngày trở về, trên vai ông Tường đeo một ba lô nặng trĩu đồ vật, hàng chục năm trôi qua những món đồ cứ mất mát dần cuối cùng chỉ còn một số món đồ đựng trong chiếc ba lô sờn rách.
Ông Tường kể lại chuyện chiến tranh qua những kỷ vật. |
Chiếc ba lô may bằng vải thô màu xanh lá cây, có quai đeo, được Trung đoàn 101 trang bị cho ông vào ngày nhập ngũ năm 1972. Từ đó trở đi, chiếc ba lô đã gắn liền với ông suốt quãng thời gian quân ngũ. Khói lửa chiến trường khiến dòng tên trên vải dần dần mờ phai, đạn bom của kẻ địch đục bao lỗ trên chiếc ba lô xanh màu lá. Qua bao gian khó ông Tường vẫn cố giữ gìn chiếc ba lô của mình vẹn nguyên, ấy thế mà trận đánh vào tháng 9/1972 đã khiến ông phải rời xa hành trang của mình. Bị thương trong lúc chiến đấu, ông Tường được đưa về hậu phương để điều trị, toàn bộ tư trang cá nhân bao gồm cả ba lô được để lại đơn vị. Thời chiến mọi thứ đều thiếu thốn, tư trang của ông Tường lúc này được đồng đội sử dụng.
Đến đầu năm 1972, khi sức khỏe đã bình phục, ông Tường từ Bắc trở lại chiến trường Quảng Trị để tiếp tục chiến đấu. Quay về căn cứ cũ, ông Tường nhìn thấy ba lô của mình, bao nhiêu ký ức về tháng ngày chinh chiến nơi bão lửa bỗng ùa về khiến ông bồi hồi.
“Tôi nhìn thấy cái ba lô của tôi ở góc hầm, Trình (một đồng đội của ông Tường) đang dùng nó... tôi hy vọng những cuốn sách của tôi nhặt được vẫn còn nhưng chẳng còn gì ngoài cái ba lô vẫn đề tên tôi trên nắp. Đổi cho Trình cái ba lô mang từ Bắc vào, tôi lấy lại cái ba lô cũ, với nó tôi cảm nhận tất cả những gì từ khi nhập ngũ”, ông Tường kể.
Kể từ ấy, chiếc ba lô gắn bó với người thương binh qua biết bao trận chiến ác liệt, ở bên ông lúc vinh quang chiến thắng, cùng ông trở về Hà Nội khi đất nước hòa bình và được gìn giữ cẩn thận cho đến tận ngày nay.
Ngoài ba lô, ông Tường còn giữ mũ tai bèo, hăng gô, dây lưng và quân hiệu đều được trang bị từ ngày nhập ngũ.
Chiến lợi phẩm và hồi ức chiến tranh
Bên cạnh những tư trang được cấp lúc nhập ngũ, ông Tường cũng thu thập chiến lợi phẩm khi chiến đấu với quân thù.
Cầm trên tay chiếc bật lửa Zippo, ông Tường kể lại: “Ngày 16/9/1972, khi làm nhiệm vụ thọc sâu vào sào huyệt của địch tại khu vực chợ Sải - Quảng Trị tiểu đội của tôi đã chiến đấu suốt từ sáng ngày 15/9 đến đêm ngày 16/9. Địch bao vây, tấn công và tiểu đội phải cầm cự trong đó, sau này tôi mới biết trận đó sư đoàn của ông phải đánh để phân tán lực lượng cho anh em trong thành cổ rút ra ngoài. Trong lúc chiến đấu, tôi đã hạ một binh lính Việt Nam cộng hòa. Khi đến tối, tôi rút ra và đi qua xác người lính đó, mở ba lô và túi áo giáp thì thấy mấy bao thuốc lá và bật lửa”.
Thời chiến điếu thuốc đã hiếm, bật lửa xịn lại càng hiếm hơn. Bao thuốc ông chia cho đồng đội mỗi người một điếu còn chiếc Zippo ông giữ lại cho riêng mình, vừa để sử dụng vừa là kỷ vật một thời đạn bom.
Ba lô thời chiến của ông Tường |
Đa phần những kỷ vật ông Tường còn giữ là tư trang cá nhân, đồ dùng sinh hoạt, chỉ có đúng 1 con dao găm nhỏ. Dao găm là vũ khí của đặc công nước, được làm bằng thép, màu trắng, gồm có phần chuôi để cầm tay và có chức năng như chiếc kìm để bấm hoặc cắt, thân (lưỡi) sắc, mũi nhọn dùng để cắt hoặc đục, sống dao được thiết kế theo kiểu răng cưa khiến con dao này có thể trở thành một lưỡi cưa sắc lẻm bất cứ khi nào cần thiết. Bao da dùng để đựng dao màu nâu.
Thực chất con dao này thuộc về một đồng đội của ông Tường, do quá yêu thích loại vũ khí nhỏ gọn nên ông đã tìm mọi cách để có được nó. Cuối cùng, người đồng đội đã chấp nhận đổi con dao lấy thuốc lá và thuốc lào của ông Tường. Tưởng chừng những ký ức về những kỷ vật thời chiến sẽ kết thúc khi hòa bình, nhưng vẫn có một số món đồ tiếp tục gắn bó với cuộc sống hàng ngày của người lính trong những tháng năm sau đó. Với ông Tường là chiếc chăn bộ đội sờn ố được cấp trong thời gian điều trị vết thương tháng 12/1972.
Sau khi đã hồi phục ông xin giữ lại chiếc chăn, mang ra chiến trận rồi mang về quê nhà ở Hà Nội. Khi lập gia đình, tuy không sử dụng làm chăn cưới nhưng hai vợ chồng ông vẫn dùng để đắp hàng ngày. Qua thời gian màu vải đã bạc phai, đường chỉ bung đứt, mảnh vá rách rời. Ấy vậy nhưng ông Tường vẫn không nỡ bỏ đi. Rách đến đâu ông cũng nhờ vợ vá lại, bởi nó là kỷ niệm của một thời bom đạn.
Hưởng ứng lời kêu gọi hiến tặng hiện vật cho bảo tàng Hà Nội, ông Tường đã tặng chiếc ba lô và các kỷ vật chiến tranh của mình cho Bảo tàng lưu giữ, bảo quản và phát huy giá trị của hiện vật.
Tôn Vỹ- Phong Linh
Bài đăng trên ấn phẩm Đời sống & Pháp luật số Thứ 4 (101)