Trong bài đăng dài trên kênh Telegram hôm 5/9, CEO Telegram Pavel Durov đã chỉ trích Pháp về việc bắt giữ và buộc tội ông.
"Sử dụng luật pháp từ thời kỳ trước khi có điện thoại thông minh để buộc tội một CEO về hành vi phạm tội do bên thứ ba gây ra trên nền tảng mà người CEO đó quản lý là một cách tiếp cận sai lầm”, trích dẫn bài đăng.
Ông Pavel Durov phủ nhận cáo buộc của Pháp nói rằng khi Paris đưa ra yêu cầu thì không nhận được phản hồi từ Telegram. Ông khẳng định đã đích thân giúp chính quyền Pháp thiết lập đường dây nóng với Telegram để giải quyết các mối đe dọa khủng bố ở nước này.
Bên cạnh đó, cũng theo CEO, Telegram có đại diện chính thức tại Liên minh châu Âu (EU) để tiếp nhận và xử lý các yêu cầu trong khả năng cho phép.
Sử dụng giọng điệu hòa giải hơn ở cuối bài viết, ông Pavel Durov cho hay số lượng người dùng tăng vọt của Telegram đã gây ra những khó khăn ngày càng lớn, khiến tội phạm dễ dàng lạm dụng nền tảng. Ông ước tính Telegram đã đạt 950 triệu người dùng trên toàn thế giới.
"Đó là lý do tôi đặt mục tiêu đảm bảo cải thiện đáng kể vấn đề này", CEO Telegram nói, thêm rằng vấn đề đang được giải quyết "nội bộ" và sẽ chia sẻ thêm thông tin chi tiết trong tương lai. "Tôi hy vọng các sự kiện hồi tháng 8 sẽ giúp Telegram cũng như toàn bộ ngành công nghiệp mạng xã hội trở nên an toàn và mạnh mẽ hơn".
Như đã đưa tin trước đó, CEO Telegram bị bắt tại thủ đô Paris (Pháp) hôm 24/8. Bốn ngày sau, các thẩm phán của Pháp quyết định chính thức điều tra ông Durov với các tội danh liên quan hoạt động tội phạm trên nền tảng Telegram, bao gồm đồng lõa trong các giao dịch băng đảng bất hợp pháp, “rửa tiền trong một băng đảng có tổ chức” và từ chối cung cấp thông tin cho chính quyền, theo đài RT.
Ông Durov được yêu cầu nộp số tiền bảo lãnh là 5,56 triệu USD. Vị tỷ phú này phải ở lại Pháp dưới sự giám sát tư pháp và phải đến đồn cảnh sát Pháp hai lần một tuần.
Các cuộc điều tra hình sự ở Pháp do các thẩm phán đặc biệt được trao quyền tiến hành điều tra rộng rãi. Các cáo buộc như những cáo buộc chống lại Durov thường được công bố trước khi các điều tra viên hoàn tất việc thu thập bằng chứng và có thể bị hủy bỏ bất kỳ lúc nào nếu không thể chứng minh được.