Theo Bộ Quốc phòng, hầu hết các lô đất do các cá nhân, doanh nghiệp Trung Quốc sở hữu đều ở vị trí các đường lớn, ven biển, đắc địa cho hoạt động kinh doanh và có ý nghĩa quan trọng trong khu vực phòng thủ.
Quanh sân bay Nước Mặn (Đà Nẵng) có 21 lô đất thuộc sở hữu của người Trung Quốc. Ảnh: Báo Thanh Niên |
2 người Trung Quốc đầu tư cho 8 người Việt "núp bóng" mua 84 lô đất
Gửi kiến nghị đến Quốc hội trước kỳ họp thứ 8, cử tri TP.Hải Phòng cho rằng "tình trạng người Trung Quốc nhập cảnh vào Việt Nam đầu tư, kinh doanh và thu mua đất đai gần các khu vực trọng yếu về quốc phòng, an ninh hiện nay là rất đáng ngại"; đề nghị Chính phủ có giải pháp khắc phục.
Trả lời kiến nghị cử tri về vấn đề trên, Bộ Quốc phòng đã có một thống kê khá rõ ràng về việc người Trung Quốc sở hữu đất có vị trí trọng yếu về quốc phòng, an ninh. Đây có lẽ là lần đầu tiên Bộ Quốc phòng trả lời cử tri với các thông tin rất cụ thể.
Cụ thể, theo Bộ Quốc phòng, từ năm 2011 đến 2015, trên địa bàn khu vực biên giới biển TP.Đà Nẵng có 134 lô, 1 thửa đất liên quan đến cá nhân, doanh nghiệp người Trung Quốc đang sở hữu, “núp bóng” sở hữu và thuê của UBND TP.Đà Nẵng.
Các lô đất này nằm tại các vị trí dọc các khu đô thị ven biển; ven tường rào sân bay Nước Mặn, đường Hoàng Sa, Võ Nguyên Giáp (thuộc P.Khuê Mỹ, Q.Ngũ Hành Sơn); khu đô thị các phường Phước Mỹ, Thọ Quang (Q.Sơn Trà).
Về cá nhân, có 2 trường hợp là ông Liang Zhipei (Lương Chí Bồi, 45 tuổi), quốc tịch Trung Quốc, từng là kế toán trưởng, nay là Trưởng bộ phận giám sát công trình Công ty TNHH đầu tư và phát triển Silver Shores (trụ sở P.Khuê Mỹ, Q.Ngũ Hành Sơn) và ông Chiu Cheng Tai (A Chiu, 61 tuổi), quốc tịch Đài Loan, Phó giám đốc Công ty TNHH Pu Fong (trụ sở tại P.Thọ Quang, Q.Sơn Trà), đã đầu tư cho người Việt Nam "núp bóng" mua đất.
Từ năm 2011 đến 2015, hai trường hợp trên đã đầu tư tiền cho 8 người (trong đó 6 người Việt gốc Hoa) đứng tên mua 84 lô đất với diện tích khoảng 20.000 m2, giá trị giao dịch khoảng trên 100 tỉ đồng.
Về doanh nghiệp, có 7 doanh nghiệp có yếu tố Trung Quốc sở hữu một số lô đất ven biển và thuê đất 50 năm.
Cụ thể, Công ty TNHH thương mại và dịch vụ Nguyên Thịnh Vượng, năm 2014 đã nhận quyền sử dụng đất đối với 10 lô đất trên mặt đường Hoàng Sa. Công ty TNHH thương mại du lịch và dịch vụ SilverPark, đứng tên mua 4 lô đất ở dải đất ven tường rào sân bay Nước Mặn.
Công ty TNHH Silver Sea Triệu Nghiệp, đứng tên sử dụng 2 lô đất ở dải đất ven tường rào sân bay Nước Mặn. Công ty TNHH Thương mại Du lịch & dịch vụ Hoàng Gia Trung sử dụng 13 lô đất mặt đường Võ Nguyên Giáp.
Công ty TNHH MTV Golden Wynn Đà Nẵng sử dụng 1 lô đất ở mặt đường Hoàng Sa; Công ty TNHH Thương mại - Du lịch và dịch vụ V.N. Holiday, doanh nghiệp đã chuyển nhượng mua lại từ các cá nhân, doanh nghiệp Việt Nam, sở hữu 20 lô đất ở dải đất ven tường rào sân bay Nước Mặn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Công ty TNHH Silver Shores Hoàng Đạt, được UBND TP.Đà Nẵng cho thuê 200.000 m2 đất, thời gian thuê 50 năm (đến ngày 21.6.2056), đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 21.3.2017.
Góp vốn bằng đất, sau đó bị đối tác Trung Quốc "thôn tính"
Theo Bộ Quốc phòng, để sở hữu các lô đất ở TP.Đà Nẵng, người Trung Quốc chủ yếu dựa theo 2 hình thức.
Thứ nhất, là thành lập doanh nghiệp liên doanh với Việt Nam. Ban đầu, người Trung Quốc góp vốn thấp hơn người Việt Nam (người Việt Nam góp vốn chủ yếu bằng đất), doanh nghiệp sẽ do người Việt Nam điều hành. Sau một thời gian, bằng nhiều cách, người Trung Quốc tăng vốn, giành quyền điều hành doanh nghiệp. Do tài sản góp vốn là đất, nên quyền sở hữu các lô đất rơi vào tay người Trung Quốc.
Thứ hai, là người Trung Quốc đầu tư tiền cho cá nhân người Việt Nam (chủ yếu người Việt gốc Hoa) để mua đất. Cơ quan chức năng đã phát hiện một số trường hợp cá nhân có kinh tế khó khăn nhưng đứng tên sở hữu nhiều lô đất, như ông Lý Phước Cang 12 lô, ông Trác Ngọc Phúc 10 lô... Hầu hết các lô đất đều ở vị trí các đường lớn, ven biển, đắc địa cho hoạt động kinh doanh và có ý nghĩa quan trọng trong khu vực phòng thủ.
Bộ Quốc phòng cho rằng cử tri và dư luận xã hội thấy “đáng ngại” về việc cơ quan chức năng TP.Đà Nẵng cấp chứng nhận quyền sử dụng 21 lô đất cho người Trung Quốc là có cơ sở.
Vụ việc trên, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành và UBND TP.Đà Nẵng xác minh làm rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân xử lý theo pháp luật.
Tuy nhiên, để sở hữu các lô đất, người Trung Quốc đã nghiên cứu, lợi dụng kẽ hở của luật Đầu tư năm 2014 “việc góp vốn bằng đất để liên doanh thành lập doanh nghiệp” và công tác quản lý nhà nước ở các lĩnh vực đầu tư, đất đai.
Các doanh nghiệp Trung Quốc đang sử dụng hơn 6.300 ha đất biên giới
Liên quan đến tình hình các doanh nghiệp Trung Quốc hoạt động tại Việt Nam, Bộ Quốc phòng cho biết, tính đến ngày 30.11.2019, có 149 doanh nghiệp có yếu tố Trung Quốc (92 doanh nghiệp 100% vốn Trung Quốc, 57 doanh nghiệp vốn liên doanh) đang hoạt động ở khu vực biên giới của 22/44 tỉnh, thành; trong đó, khu vực biên giới đất liền 24 doanh nghiệp, khu vực biên giới biển 125 doanh nghiệp.
Trong số này, có 134 doanh nghiệp đang hoạt động, 15 doanh nghiệp đã triển khai nhưng tạm ngưng hoạt động. Các doanh nghiệp sử dụng đất với tổng diện tích 162.467,7 ha (trong đó có 943,7 ha thuộc khu vực biên giới đất liền và 5.393,7 ha khu vực biên giới biển, kể cả mặt biển); tổng vốn đầu tư 30,872 tỉ USD, trong đó khu vực biên giới đất liền 1,637 tỉ USD, khu vực biên giới biển 29,235 tỉ USD.
Cũng theo Bộ Quốc phòng, có 4.239 lao động người Trung Quốc đang làm việc tại các doanh nghiệp trên (khu vực biên giới đất liền 374 người, khu vực biên giới biển 3.865 người).
Các doanh nghiệp sử dụng đất có thời hạn thuê từ 5 năm đến 50 năm; lĩnh vực hoạt động chủ yếu là kinh doanh khách sạn, nhà hàng, du lịch, vui chơi giải trí, may mặc, nuôi trồng thủy sản, giày da, sản xuất bao bì, đồ chơi trẻ em, linh kiện điện tử...
Địa bàn tập trung nhiều doanh nghiệp Trung Quốc nhất là: Đà Nẵng 22, Quảng Ninh 17, Hải Phòng 16, Bình Định 9, Hà Tĩnh 5, Bình Thuận 5... Các doanh nghiệp có yếu tố Trung Quốc ở khu vực biên giới đều hình thành từ tháng 12.2018 trở về trước (năm 2019 không có doanh nghiệp mới nào); trước khi cấp phép, đầu tư đã được các cơ quan chức năng thẩm định, phê duyệt.
Các doanh nghiệp có yếu tố Trung Quốc đều cơ bản chấp hành đúng pháp luật Việt Nam trong quá trình hoạt động. Tuy nhiên, Bộ Quốc phòng cũng cho biết “còn nổi lên một số vấn đề đáng chú ý”, như một số doanh nghiệp đưa lao động người Trung Quốc sang làm việc nhập cảnh dưới hình thức du lịch; sử dụng lao động Trung Quốc không khai báo, đăng ký theo quy định, thậm chí có doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân tuyển dụng lao động người nước ngoài nhưng vẫn tuyển dụng (tại Bình Định, Đà Nẵng, Bình Thuận).
Có tình trạng doanh nghiệp đầu tư “núp bóng” danh nghĩa doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong các lĩnh vực du lịch, nuôi trồng, chế biến, thu mua hải sản nhưng thực chất việc điều hành, quản lý do người Trung Quốc đảm nhiệm (tại Khánh Hòa, Quảng Ninh).
Một số doanh nghiệp dưới vỏ bọc kinh doanh, sản xuất nhưng đã có hoạt động tội phạm công nghệ cao, sản xuất ma túy (Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Phú Yên, Kon Tum). Có doanh nghiệp trốn thuế, gây ô nhiễm môi trường (Hà Tĩnh, Hải Phòng).
Cơ quan chức năng đã xử lý một số vụ việc có yếu tố liên quan đến người Trung Quốc: 3 vụ/63 người không khai báo tạm trú, 3 vụ/87 người không có giấy phép lao động, 1 vụ/285 công nhân Trung Quốc xô xát với công nhân Việt Nam, 1 vụ/3 trường hợp kết hôn trái phép, 4 vụ/310 lao động không chấp hành quy định trong quá trình làm việc tại các doanh nghiệp.
Trước thực trạng này, Bộ Quốc phòng đã báo cáo và đề xuất Chính phủ 2 việc. Thứ nhất, chỉ đạo các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố rà soát đánh giá tổng thể các dự án đầu tư của nước ngoài, nhất là dự án liên quan đến Trung Quốc tại khu vực biên giới, biển, đảo có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh; kịp thời phát hiện, điều chỉnh những bất cập của luật Đầu tư, luật Đất đai và cơ chế quản lý, cấp phép các hoạt động đầu tư nhằm hạn chế sơ hở không để cá nhân, doanh nghiệp Trung Quốc lợi dụng hoạt động. Thứ hai, chỉ đạo các đơn vị tăng cường công tác nắm tình hình, phối hợp với công an rà soát các hoạt động của người Trung Quốc ở địa bàn đơn vị đảm nhiệm; chú ý các hoạt động lợi dụng vỏ bọc đầu tư, liên kết, núp bóng để hoạt động chống phá; kịp thời phát hiện báo cáo Bộ Quốc phòng tham mưu với Chính phủ chỉ đạo xử lý, ngăn chặn. |