Bệnh nhân nữ 44 tuổi với biểu hiện tê bì dị cảm và yếu tứ chi trên 1 năm và đã đi nhiều nơi khám và điều trị với chẩn đoán: viêm tủy cắt ngang nhưng thực tế, bệnh nhân bị u tế bào màng lót ống nội tủy.
Bệnh nhân đến khám khi đã giảm cảm giác và yếu tứ chi, đi lại khó khăn: khối u lớn, kéo dài, trong tủy... Đây là một nỗi khiếp đảm cho các phẫu thuật viên.
Bệnh nhân này có khối u kéo dài từ C3 đến D3 là 8 đốt sống. Khối u bao gồm cả u đặc và nang. Trước đây, việc mở tủy rất khó khăn vì có thể gây liệt tứ chi do tổn thương tủy. Ngày nay, với kính vi phẫu phóng đại hàng chục lần và hệ thống cảnh báo thần kinh trong mổ mà có thể mở tủy lấy u được. Nhưng nếu không mổ, bệnh nhân sẽ bị liệt tứ chi và rối loạn hô hấp.
Để phát hiện sớm bệnh, cần nhận biết rõ những dấu hiệu gợi ý như: tê bì hai tay, yếu hai tay, cầm đũa bát ăn cơm thấy yếu hay rơi đũa, đi lại thấy yếu nghỉ ngơi không đỡ thì phải đi khám ngay.
Nhiều cơ sở không điều trị được loại bệnh lý này do nguy cơ liệt nặng hơn sau mổ nhiều nên đa phần phải đến chuyên khoa có cơ sở đầy đủ trang thiết bị, do bác sĩ có chuyên môn mổ.
Trước đây, việc mở tủy lấy u là rất khó khăn do nguy cơ gây liệt tứ chi sau mổ. Hiện nay, với sự hỗ trợ của hệ thống máy móc trong mổ việc mở tủy đã tiến hành thường quy, bệnh nhân sau mổ tốt, hồi phục rất nhanh sau 7 -10 ngày
U tế bào màng lót ống nội tủy (ependymoma)
U tế bào màng lót ống nội tủy chiếm khoảng 13% trong các loại u tủy sống với u tế bào màng lót ống nội tủy chùm đuôi ngựa là loại rất thường gặp. Trong 169 trường hợp u tế bào màng lót ống nội tủy được Slooff và cộng sự phân tích, 99 trường hợp (56,5%) xuất hiện tại mức của chùm đuôi ngựa và 70 trường hợp (43,5%) là nội tủy hoàn toàn.
U tế bào màng lót ống nội tủy của tủy gặp nhiều ở nam giới và thường có triệu chứng ở khoảng giữa của lứa tuổi ba mươi. Hai triệu chứng thường gặp nhất là đau và yếu chi. Chi dưới bị nhiều hơn chi trên và đau có thể khu trú ở đốt sống hoặc lan theo rễ. Các rối loạn cơ vòng cũng thường gặp trong các trường hợp u ở chùm đuôi ngựa. Hội chứng Fincher gồm xuất huyết khoang dưới nhện đột ngột cùng với đau thần kinh tọa cấp tính là một thí dụ hiếm gặp của các triệu chứng trong các trường hợp u tế bào màng lót ống nội tủy chùm đuôi ngựa biểu hiện đột ngột và có thể xảy ra do tình trạng thai nghén hoặc chấn thương.
U tế bào màng lót ống nội tủy cho hình ảnh thay đổi về xương trong 15% các bệnh nhân của Slooff và cộng sự và trong 36% của nhóm u nội tủy được báo cáo bởi Guidetti và Fortuna.
Sự gia tăng khoảng cách giữa các chân cung là dấu hiệu có giá trị nhất, sau đó là dấu hiệu bào mòn thân đốt sống dạng vỏ sò. U tế bào màng lót ống nội tủy rất hiếm khi hóa vôi, tủy đồ cho thấy hình ảnh giãn rộng lan tỏa của bóng tủy kéo dài trên nhiều mức đốt sống. Sự phối hợp khí và cản quang cho thấy các thương tổn tủy như hydromyelia. U tế bào màng lót ống nội tủy chùm đuôi ngựa biểu hiện giống như một khối có nhiều ngăn.
Lấy toàn bộ u là phương pháp được chọn cho việc điều trị u tế bào màng lót ống nội tủy. Guidetti và Fortuna báo cáo 20 trường hợp trong đó có 16 trường hợp được lấy toàn bộ u, 3 trường hợp một phần u và 1 trường hợp mổ tủy sinh thiết. Một vài trường hợp, đặc biệt là những trường hợp u khổng lồ, dính vào màng cứng, bào mòn xương và xâm nhập vào mô mềm, là những trường hợp không thể lấy hết được. Với việc sử dụng kính hiển vi phẫu thuật và dao đốt lưỡng cực vi phẫu, đa số các trường hợp u tế bào màng lót ống nội tủy có thể lấy được một cách an toàn. Horrax & Henderson vào năm 1939 và Fischer & Tommasi năm 1976 đã báo cáo các trường hợp lấy hết u u tế bào màng lót ống nội tủy phát triển từ hành tủy đến chóp tủy mà vẫn có kết quả tốt. Tỉ lệ tử vong sau mổ gần đây dao động từ 0 đến 10.9%.
Đa số các tác giả đều không chọn phương pháp chiếu xạ cho các u đã được lấy hết. Xạ trị và hóa trị cho đến nay không được xem là phương pháp điều trị cho các u này.
TS - BS Nguyễn Vũ/BV Đại học Y Hà Nội