Công an chỉ có quyền kiểm tra điện thoại của công dân trong những trường hợp cụ thể, được quy định tại Điều 88, 89, 90, 107, 196 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và một số văn bản pháp luật liên quan khác.
Dưới đây là một số trường hợp chính:
Khi điện thoại là tang vật, vật chứng của vụ án
- Tang vật: Là những đồ vật mà người ta đã dùng để thực hiện hành vi phạm tội hoặc là kết quả trực tiếp của hành vi phạm tội.
- Vật chứng: Là những đồ vật có liên quan đến vụ án mà cơ quan điều tra chưa xác định được là tang vật hay không.
Ví dụ: Trong vụ án cướp giật, điện thoại của nạn nhân bị cướp được coi là tang vật.
Trong vụ án lừa đảo, điện thoại của đối tượng dùng để liên lạc với nạn nhân được coi là vật chứng.
Khi có căn cứ cho rằng điện thoại chứa thông tin liên quan đến vụ án
- Căn cứ: Là những dữ liệu, bằng chứng cho thấy điện thoại có thể chứa thông tin liên quan đến vụ án.
- Thông tin liên quan đến vụ án: Bao gồm thông tin về người phạm tội, nạn nhân, hiện trường vụ án, phương thức, thủ đoạn phạm tội...
Ví dụ: Qua điều tra, cơ quan công an xác định được nghi phạm đã sử dụng điện thoại để liên lạc với đồng phạm thực hiện hành vi phạm tội. Nạn nhân khai nhận đã chụp lại ảnh đối tượng phạm tội bằng điện thoại.
Khi người sử dụng điện thoại vi phạm pháp luật
- Vi phạm pháp luật: Bao gồm các hành vi vi phạm pháp luật hình sự, hành chính hoặc các quy định khác của pháp luật.
Ví dụ: Người sử dụng điện thoại để truyền bá thông tin tuyên truyền chống phá nhà nước. Người sử dụng điện thoại để thực hiện hành vi mua bán ma túy.
Lưu ý
- Việc kiểm tra điện thoại phải được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo tôn trọng quyền riêng tư của công dân.
- Người bị kiểm tra điện thoại có quyền được giải thích lý do kiểm tra, được có mặt luật sư và được từ chối cung cấp mật khẩu.
- Cơ quan công an phải lập biên bản về việc kiểm tra điện thoại và ghi rõ nội dung, kết quả kiểm tra.