Theo Pháp Luật TP.HCM, bộ Y tế vừa có Quyết định 5155/QD-BYT về việc ban hành Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 ở trẻ em. Được biết, đây là lần đầu tiên Việt Nam có văn bản hướng dẫn riêng cho đối tượng này.
Thực tế, phần lớn trẻ mắc COVID-19 đều không có triệu chứng hoặc nhẹ với triệu chứng viêm hô hấp cấp trên hoặc tiêu hóa (55%), trung bình (40%), nặng (4%), nguy kịch (0,5%).
Hướng dẫn của bộ Y tế nêu rõ, trẻ nhũ nhi dưới 12 tháng tuổi có nguy cơ cao diễn tiến nặng. Trẻ mắc COVID-19 thường ở thể nhẹ, do đó tỷ lệ nhập viện và tử vong ít so với người lớn.
Hội chứng viêm hệ thống đa cơ quan ở trẻ mắc COVID-19 hiếm gặp, xảy ra chủ yếu ở 2 - 6 tuần sau nhiễm SARS-CoV-2, nhưng thường diễn tiến nặng và có thể gây tử vong.
Về trường hợp bệnh nghi ngờ, trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (sốt và có ít nhất một triệu chứng của bệnh đường hô hấp: ho, đau họng, khó thở…) và có một trong những điều kiện sau:
- Tiền sử ở/đi/đến/qua vùng dịch tễ COVID-19 trong vòng 14 ngày trước khi khởi phát các triệu chứng.
- Tiền sử tiếp xúc với ca bệnh COVID-19 hoặc tiền sử tiếp xúc gần với các trường hợp nghi ngờ/hoặc ca bệnh trong vòng 14 ngày trước khi khởi phát các triệu chứng.
- Một trẻ nhập viện với các triệu chứng của nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính nặng nhưng không giải thích được bằng các nguyên nhân khác.
- Trẻ có xét nghiệm test nhanh với SARS-CoV-2 dương tính.
Trường hợp bệnh xác định là tất cả các trường hợp có triệu chứng nghi ngờ và có xét nghiệm dương tính với virus SARS-CoV-2 bằng kỹ thuật Real-time RT-PCR.
Trong hướng dẫn, bộ Y tế nêu rõ các đặc điểm lâm sàng thường gặp như thời gian ủ bệnh từ 2 – 14 ngày, trung bình là 4 – 5 ngày.
Bệnh khởi phát với các triệu chứng như sốt, mệt mỏi, đau đầu, ho khan, dau họng, nghẹt mũi/sổ mũi, mất vị giác/khứu giác, nôn và tiêu chảy, đau cơ… Tuy nhiên trẻ thường không có triệu chứng.
Thống kê cho thấy các triệu chứng lâm sàng thường gặp ở trẻ mắc COVID-19 là sốt (chiếm 63%), ho (34%), buồn nôn hoặc nôn (20%), ỉa chảy (20%), khó thở (18%), triệu chứng mũi họng (17%), phát ban (17%), mệt mỏi (16%), đau bụng (15%), triệu chứng giống Kawasaki (13%), không có triệu chứng (13%), triệu chứng thần kinh (12%), kết mạc (11%) và họng đỏ (9%).
Một số biểu hiện khác có thể gặp nhưng ít hơn là tổn thương da niêm (hồng ban các đầu ngón chi, nổi ban da…); rối loạn nhịp tim; tổn thương thận cấp; viêm thanh mạc (tràn dịch màng phổi, tràn dịch màng bụng, tràn dịch màng tim); gan to, viêm gan; bệnh não (co giật, hôn mê hoặc viêm não).
Hầu hết trẻ chỉ bị viêm đường hô hấp trên với sốt nhẹ, ho, đau họng, sổ mũi, mệt mỏi; hay viêm phổi và thường tự hồi phục sau khoảng 1 – 2 tuần. Khoảng 2% trẻ có diễn tiến nặng, thường vào ngày thứ 5 – 8 của bệnh.
Trong đó, có một số trẻ (khoảng 0,7%) cần điều trị ở các đơn vị hồi sức tích cực với các biến chứng nặng như hộ chứng nguy kịch hô hấp cấp (ARDS), viêm cơ tim, nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm trùng và hội chứng viêm đa hệ thống (MIS-C).
Các yếu tố tiên lượng nặng trẻ béo phì, trẻ chậm phát triển, bại não, bệnh phổi mạn, suy giảm miễn dịch, đái tháo đường, tim bẩm sinh… Tỷ lệ tử vong ở trẻ rất thấp (< 0,1%), hầu hết tử vong do bệnh nền. Trong thời kỳ hồi phục (thường trong giai đoạn từ ngày thứ 7 - 10), nếu không có các biến chứng nặng, trẻ sẽ hết dần các triệu chứng lâm sàng và khỏi bệnh.
VietNamNet thông tin thêm, hướng dẫn của bộ Y tế cũng chỉ ra 4 mức độ bệnh ở trẻ mắc COVID-19, cụ thể:
Mức độ nhẹ
- Không có triệu chứng lâm sàng hoặc
- Triệu chứng không điển hình: sốt, đau họng, ho, chảy mũi, tiêu chảy, nôn, đau cơ, ngạt mũi, mất khứu/vị giác, không có triệu chứng của viêm phổi.
- Nhịp thở bình thường.
- Không có biểu hiện của thiếu ô xy, SpO2 ≥ 96% khi thở khí trời.
- Thần kinh: trẻ tỉnh táo, sinh hoạt bình thường, bú mẹ/ăn/uống bình thường.
- X-quang phổi bình thường.
Lưu ý, trẻ có bệnh nền: béo phì, bệnh phổi mãn, suy thận mãn, gan mật, dùng corticoid kéo dài, suy giảm miễn dịch, tim bẩm sinh...cần theo dõi sát vì dễ diễn biến nặng. Trẻ nhẹ thì điều trị tại nhà hoặc nơi cách ly.
Mức độ trung bình
- Có triệu chứng viêm phổi nhưng không có các dấu hiệu của viêm phổi nặng và rất nặng:
+ Thở nhanh: < 2 tháng: ≥60 lần/phút; 2 - 11 tháng: ≥50 lần/phút; 1 - 5 tuổi: ≥40 lần/phút.
+ SpO2: 94 - 95% khi thở khí trời.
+ Thần kinh: tỉnh táo, mệt, ăn/bú/uống ít hơn.
+ Chụp X-quang phổi có tổn thương dạng mô kẽ, kính mờ (thường ở 2 đáy phổi).
Những trẻ này cần được đưa đến viện, có thể dùng các biện pháp hỗ trợ hô hấp như oxy gọng kính, dùng thuốc kháng sinh, remdesivir...
Mức độ nặng
Trẻ có một trong các dấu hiệu sau:
- Trẻ có triệu chứng viêm phổi nặng, chưa có dấu hiệu nguy hiểm đe dọa tính mạng:
+ Thở nhanh theo tuổi kèm ≥ 1 dấu hiệu co rút lồng ngực hoặc thở rên (trẻ < 2th), phập phồng cánh mũi
+ Trẻ khó chịu, quấy khóc, bú/ăn/uống khó.
- SpO2: Từ 90 đến dưới 94% khi thở khí trời.
- Chụp X-quang phổi có tổn thương dạng mô kẽ, kính mờ lan tỏa ≥ 50% phổi.
Mức độ nguy kịch
Trẻ có một trong các dấu hiệu sau:
- Suy hô hấp nặng SpO2 < 90% khi thở khí trời, cần đặt nội khí quản thông khí xâm nhập.
- Dấu hiệu nguy hiểm đe dọa tính mạng:
+ Tím tái
+ Thở bất thường, rối loạn nhịp thở
+ Ý thức giảm khó đánh thức hoặc hôn mê
+ Trẻ bỏ bú/ăn hoặc không uống được
Trẻ có thể mắc hội chứng suy hô hấp tiến triển, huyết áo tụt, sốc nhiễm trùng, suy đa tạng, hội chứng viêm hệ thống, cơn bão cytokin.
Trẻ nặng và nguy kịch cần điều trị tại ICU, dùng thuốc, hỗ trợ hô hấp theo chỉ định bác sĩ.
Đinh Kim(T/h)