Bé 2 tháng tuổi bị tổn thương thần kinh vì thói quen bế đung đưa của gia đình
Theo VietNamNet, trẻ vào Bệnh viện Nhi Trung ương cấp cứu trong tình trạng tăng trương lực cơ liên tục, tím môi, thóp trước căng phồng, co giật, có dấu hiệu tăng áp lực nội sọ, nguy cơ tử vong cao.
Gia đình cho biết trước đó, trẻ không bị té ngã, chấn thương, chưa từng co giật. Bệnh nhi được chụp cộng hưởng từ (MRI) sọ não, soi đáy mắt, kết quả cho thấy trẻ tụ máu dưới nhện lều tiểu não hai bên và liềm đại não, phù não lan tỏa các bán cầu não 2 bên, kèm xuất huyết võng mạc..., nghi do hội chứng rung lắc.
Trẻ được chuyển đến khoa Điều trị tích cực nội khoa, được thở máy, cắt cơn co giật và điều trị tăng áp lực nội sọ, sử dụng nhiều thuốc khác.
Sau 7 ngày điều trị, trẻ cai được máy thở, dấu hiệu sinh tồn ổn định tuy nhiên vẫn còn di chứng tăng trương lực cơ, giảm ý thức, nguy cơ cao để lại di chứng thần kinh lâu dài. Điều này gây ảnh hưởng nặng nề đến sự phát triển não bộ, tương tác xã hội của trẻ.
Bác sĩ cảnh báo hội chứng rung lắc ở trẻ sơ sinh
Báo Giao Thông dẫn lời ThS.BS Ngô Tiến Đông, Khoa Điều trị tích cực Nội khoa, Bệnh viện Nhi Trung ương cho biết: Đây là một chấn thương não nghiêm trọng xảy ra ở trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ khi bị rung lắc mạnh. Hội chứng này xảy ra phổ biến ở trẻ nhỏ dưới 1 tuổi, đặc biệt trong giai đoạn từ 2-4 tháng tuổi, bởi đó là thời điểm trẻ có xu hướng quấy khóc thường xuyên và kéo dài. Tuy nhiên, trẻ dưới 5 tuổi cũng có thể bị ảnh hưởng.
Ở trẻ em, đặc biệt là trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, trọng lượng đầu chiếm khoảng 10-15% trọng lượng cơ thể. Ở độ tuổi này, trẻ có cơ cổ rất yếu không đủ sức nâng đỡ đầu vốn có kích thước tương đối lớn, não bộ chưa phát triển nhiều, nằm "trôi nổi" trong môi trường dịch não tủy bao bọc xung quanh. Rung lắc mạnh, gây ra sự tăng - giảm tốc nhanh chóng của não, tác động va đập vào bề mặt cứng bên trong hộp sọ, làm tổn thương não và các mạch máu não, phù não và tăng áp lực nội sọ.
"Hội chứng rung lắc khó có 1 con số thống kê tỷ lệ chính xác. Trên cộng đồng, tôi lo lắng rằng vẫn còn nhiều trường hợp khác trẻ bị tổn thương do Hội chứng rung lắc mà chúng ta bỏ sót. Có nhiều trẻ chỉ biểu hiện quấy khóc, li bì 1-2 ngày rồi vẫn ăn ngủ bình thường, gia đình sẽ bỏ qua giai đoạn đó. Sau này lớn lên, trẻ mới dần có biểu hiện của bại não, thị lực kém, chậm phát triển, lúc đó rất khó biết được căn nguyên và cũng rất muộn để có thể can thiệp, điều trị được", BS Đông cho biết thêm.
Các biểu hiện của hội chứng này rất đa dạng và thường khó phát hiện, dễ nhầm lẫn với các bệnh khác. Thời gian khởi phát có thể là ngay sau khi rung lắc hoặc sau một khoảng thời gian: trẻ quấy khóc, nôn nhiều, bú kém, nhịp thở bất thường, li bì, co giật, hoặc hôn mê. Trong một số trường hợp Hội chứng rung lắc nhẹ, trẻ có thể không biểu hiện triệu chứng ngay, nhưng một thời gian sau có thể gặp phải những vấn đề liên quan đến chậm phát triển tinh thần vận động.
Theo khuyến cáo của bác sĩ Nhi khoa, các bậc phụ huynh phải ghi nhớ rằng tuyệt đối không thực hiện những động tác xoay chuyển đầu trẻ một cách đột ngột như: Rung lắc nôi đối với trẻ nhỏ; bế thốc ngược; xốc vác trẻ gấp gáp; tung hứng trẻ khi nô đùa; tát, đánh vào tai, vào đầu, vào mặt trẻ.
Hội chứng rung lắc gây ra những hậu quả gì?
Việc rung lắc ở trẻ, dù có hay không sự giảm tốc độ đột ngột của đầu do va vào bề mặt cứng, có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng sau:
Tụ máu dưới màng cứng: Là sự tích tụ máu giữa bề mặt não và màng cứng (lớp màng xơ bao quanh bề mặt não). Xảy ra khi những tĩnh mạch cầu nối giữa não và màng cứng bị kéo căng vượt quá khả năng đàn hồi, vỡ ra và chảy máu.
Tụ máu dưới nhện: Là sự tích tụ máu giữa màng nhện (lớp màng giống như màng lưới bao quanh bề mặt não chứa đầy dịch não tủy) và não.
Chấn thương trực tiếp trên bề mặt não khi não đập vào mặt trong của bản sọ.
Sự xé rách hoặc đứt gãy các nhánh tế bào thần kinh ở vỏ và các cấu trúc sâu của não gây bởi sự va chạm đối với não.
Những tổn thương cho tế bào não khi những sợi thần kinh bị tổn thương giải phóng chất hóa học gắn kết với oxy lấy đi từ não.
Khi trẻ xuất hiện những dấu hiệu nghi ngờ tổn thương não do Hội chứng rung lắc, phụ huynh cần:
- Nhanh chóng gọi xe cứu thương đến bệnh viện gần nhất để được thăm khám và điều trị kịp thời.
- Hạn chế bế xốc hay rung lắc thêm để gọi trẻ tỉnh lại, không cho trẻ ăn hoặc uống nước trước khi có cấp cứu hỗ trợ.
- Nếu trẻ ngừng thở, phụ huynh cần chủ động thực hiện hô hấp nhân tạo. Trong một số trường hợp, trẻ có thể bị nôn trớ, để tránh bị sặc, hãy nhẹ nhàng đặt nghiêng đầu và người trẻ theo một trục đồng nhất.
Thùy Dung (T/h)