Lấy 2 ống thông bị "bỏ quên" hơn 10 năm trong người nam bệnh nhân
Dân Trí dẫn thông tin từ một bệnh viện ở tỉnh Cà Mau cho biết, bệnh viện vừa thực hiện thành công phẫu thuật lấy 2 ống thông JJ đã để quên trong người một nam bệnh nhân hơn 10 năm.
Hơn 10 năm trước, ông L.V.E. (50 tuổi, trú tại tỉnh Cà Mau) có can thiệp phẫu thuật đặt 2 ống thông JJ (một loại ống đặt cho bệnh nhân sau khi can thiệp điều trị bệnh lý đường tiết niệu) vào thận - niệu quản - bàng quang do tình trạng niệu quản 2 bên bị chèn ép.

2 ống thông đặt trong người bệnh nhân được lấy ra sau 10 năm. Ảnh: Dân Trí.
Sau khi can thiệp đặt xong, bác sĩ có dặn bệnh nhân tái khám để kiểm tra và rút 2 ống thông khi tình trạng hẹp niệu quản ổn định. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế gia đình nên bệnh nhân đã không tái khám, bỏ quên luôn 2 ống thông trong cơ thể hơn 10 năm.
Đến ngày 18/12, bệnh nhân đến khám và điều trị tại một bệnh viện ở khu vực Bạc Liêu (tỉnh Cà Mau) với tình trạng đau tức vùng hông lưng 2 bên.
Sau khi thăm khám, bác sĩ xác định bệnh nhân có 2 ống thông JJ trong thận - niệu quản - bàng quang nên tiến hành can thiệp lấy 2 ống thông ra và rất may không gặp biến chứng nào.
Hiện tình trạng bệnh nhân ổn định và được tiếp tục theo dõi tình trạng sức khỏe.
BSCKI Tạ Hữu Nghĩa, phẫu thuật viên chính của bệnh nhân, cho biết ống thông JJ đặt vào đường tiết niệu của bệnh nhân sau khi điều trị các bệnh lý liên quan để đảm bảo lưu thông hệ thống đường tiết niệu từ thận đến bàng quang.
Thời gian ống thông lưu trong cơ thể tối đa chỉ có 6 tháng với loại thông thường và một năm với loại cao cấp hơn. Việc để quên ống thông JJ gây rất nhiều biến chứng, thậm chí ảnh hưởng đến chức năng thận nhiều trường hợp dẫn đến suy thận.
Qua trường hợp trên, bác sĩ khuyến cáo người bệnh khi can thiệp đường tiết niệu có đặt ống thông JJ nên tái khám để theo dõi tình trạng ống thông sau mổ và rút ống đúng chỉ định, tránh để các tình trạng muộn gây ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe.
Chàng trai mắc bệnh hiếm, 100.000 người chỉ có 2 người mắc
Người Lao Động dẫn thông tin từ Bệnh viện Nhân dân 115 (TP. HCM) cho biết các bác sĩ tại đây vừa tiếp nhận điều trị thành công cho nam thanh niên (19 tuổi) mắc hội chứng Kearns–Sayre, một bệnh lý bẩm sinh hiếm gặp.
Trước đó, nam bệnh nhân không có tiền sử bệnh lý ngoài vóc dáng gầy, nhỏ (nặng 35 kg, cao 1,4 m).
Khoảng hai năm trước, bệnh nhân bắt đầu xuất hiện tình trạng khó mở mắt, sau đó sụp mi tiến triển một bên. Sau đó, bệnh nhân khám mắt tại Bệnh viện Mắt TP. HCM, qua các xét nghiệm chuyên sâu, các bác sĩ chẩn đoán bị mắc thoái hóa võng mạc sắc tố kèm liệt vận nhãn ngoài tiến triển (CPEO – Chronic Progressive External Ophthalmoplegia).

Bệnh nhân được chỉ định đặt máy tạo nhịp tim vĩnh viễn—thiết bị nhỏ gọn giúp duy trì nhịp đập bằng xung điện. Ảnh minh hoạ.
Gần đây, bệnh nhân tiếp tục xuất hiện cảm giác hồi hộp nên đi khám và thực hiện điện tâm đồ. Kết quả cho thấy nhịp tim chậm bất thường, chỉ khoảng 40–45 lần/phút, nên được chuyển đến chuyên khoa tim mạch tại Bệnh viện Nhân dân 115 điều trị.
Tại bệnh viện, các bác sĩ ghi nhận bệnh nhân bị block nhĩ thất độ III. Đây là một dạng rối loạn nhịp tim chậm nguy hiểm, có thể gây ngất hoặc ngưng tim đột ngột dẫn đến tử vong. Sau khi thực hiện đầy đủ các xét nghiệm nhưng không tìm được nguyên nhân có thể hồi phục, bệnh nhân được hướng đến chẩn đoán hội chứng Kearns–Sayre.
Ngay sau đó, bệnh nhân được chỉ định cấy máy tạo nhịp tim vĩnh viễn (một thiết bị nhỏ đặt trong ngực) có chức năng kích thích nhịp tim bằng xung điện.
Sau can thiệp, tình trạng sức khỏe bệnh nhân ổn định, máy hoạt động tốt. Người bệnh tiếp tục được tư vấn di truyền và điều trị phối hợp đa chuyên khoa.
Theo các bác sĩ, hội chứng Kearns–Sayre là bệnh lý hiếm gặp với tỉ lệ mắc chưa đến 2/100.000 người. Bệnh có các triệu chứng điển hình gồm: Khởi phát trước 20 tuổi, liệt vận nhãn ngoài tiến triển và thoái hóa võng mạc sắc tố. Ngoài ra, bệnh còn có thể ảnh hưởng đến nhiều cơ quan khác như tim mạch, thần kinh, thính giác, nội tiết và tình trạng dinh dưỡng.
Các chuyên gia nhấn mạnh bệnh nhân mắc hội chứng Kearns–Sayre cần được theo dõi và phát hiện sớm các biến chứng tiềm ẩn, đặc biệt là tổn thương tim mạch, nguyên nhân tử vong hàng đầu ở nhóm bệnh nhân này. Việc điều trị đòi hỏi sự phối hợp của nhiều chuyên khoa nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống, hạn chế tàn phế và giảm nguy cơ tử vong.










