(ĐSPL) - Hôm nay, tòa án Mỹ sẽ xét xử vụ siêu mẫu Ngọc Thúy kiện chồng cũ. Trước giờ xét xử, siêu mẫu Ngọc Thúy đã đăng tải toàn bộ nội dung đơn kiện lên trang cá nhân của mình và nói rằng: "Dù kết quả tòa có thế nào, thì sự thật vẫn cần được làm sáng tỏ".
Vụ siêu mẫu Ngọc Thúy khởi kiện chồng cũ thời gian qua đã khiến báo giới tốn không ít giấy mực. Mặc dù vụ kiện giữa siêu mẫu Ngọc Thúy và chồng cũ được bắt đầu từ cuối năm 2011 nhưng cho tới tận ngày hôm nay, vụ kiện này vẫn chưa đi đến hồi kết trong khi đã có thêm rất nhiều tình tiết mới liên quan tới cuộc hôn nhân của Ngọc Thúy và vị đại gia này.
Siêu mẫu Ngọc Thúy. |
Đặc biệt hơn, kể từ ngày xảy ra vụ kiện, rất nhiều thông tin xung quanh việc Ngọc Thúy đối xử tệ bạc với cha mẹ, có lối sống buông thả và bỏ bê con cái được tiết lộ gây bất lợi cho cô nàng. Hơn nữa, toàn bộ những thông tin này lại được chính người thân của Ngọc Thúy là: cha, mẹ và em trai ruột Ngọc Thúy chia sẻ đã khiến không ít người bất ngờ. Trong đó, mẹ ruột của siêu mẫu Ngọc Thúy là bà Trương Thị Bê đã nhiều lần lên tiếng chỉ trích và tố cáo chân dài này về hành vi chửi mắng, đánh đuổi bố mẹ ra khỏi nhà khi ông bà sang Mỹ thăm con, cháu.
Trước những thông tin này, siêu mẫu Ngọc Thúy đã một mực phản bác và cho rằng đó là những thông tin bịa đặt. Chia sẻ nỗi đau xót trên trang cá nhân của mình về thông tin trên, Ngọc Thúy nói rằng: "Đây là câu chuyện đau lòng nhất đối với tôi. Nhưng vì rất nhiều lý do, tôi không muốn và không thể mổ xẻ vấn đề này. Tôi xin báo chí đừng cố đẩy gia đình tôi đến bi kịch mẹ hại con, con lên án mẹ. Nhưng có một điều tôi có thể quả quyết: Ngọc Thúy sẽ vẫn là Ngọc Thúy, vẫn sẽ mạnh mẽ và vững tin đi đến tận cùng vụ việc này, y như cách tôi đối diện với vụ ly hôn của mình".
Siêu mẫu Ngọc Thúy chia sẻ nội dung đơn kiện gửi tới tòa trước giờ xét xử. |
Theo chia sẻ của Ngọc Thúy thì ngày hôm nay (26/3 - theo giờ địa phương), tòa án Mỹ sẽ tiếp tục xét xử vụ siêu mẫu Ngọc Thúy kiện chồng cũ. Trước giờ xét xử, siêu mẫu Ngọc Thúy đã đăng tải nội dung đơn kiện lên trang cá nhân và nhận được nhiều sự quan tâm của cư dân mạng. Cô nói rằng, dù kết quả tòa phán quyết như thế nào thì sự thật cũng cần được làm sáng tỏ nên đã quyết định chia sẻ toàn bộ nội dung đơn kiện lên.
Đặc biệt, trong đơn kiện có đoạn Ngọc Thúy chia sẻ về việc bị chồng đánh, tát và ấn xuống đất trong lúc cô đang mang thai, Ngọc Thúy viết:
"Vào ngày 01/06/2008, bị đơn đã đánh, tát vào mặt tôi và ấn tôi xuống đất trong phòng khách sạn tại Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam, trong khi tôi đang mang thai 5 tháng. Bị đơn đã làm trầy xước và làm bầm má và cổ tôi khi đang cố bóp cổ tôi. Xem giấy khám sức khỏe mô tả tổn thương thể chất do “bị bạo hành” (Bản sao – Phụ lục C).
Bị đơn tiếp tục dựng lên những câu chuyện truyền thông mà bị đơn biết rằng sẽ tạo ra sự căm ghét, sẽ gây phiền toái và nguy hiểm cho tôi và các con. Thực chất đây chỉ là mưu đồ và sự thù hằn dai dẳng như khi bị đơn đẩy tòa án California và tòa án Việt Nam vào thế đối đầu với nhau. Hiện nay tôi không biết làm cách nào để dứt ra khỏi tình trạng bị lôi kéo vào việc kiện tụng của bị đơn trong quãng thời gian còn lại trong cuộc đời tôi. Tôi chỉ mong muốn có được khoản cấp dưỡng cho các con gái của tôi và kết thúc vụ việc này".
Tiếp đó, Ngọc Thúy yêu cầu chồng cũ phải thanh toán toàn bộ chi phí và phí tổn mà Ngọc Thúy đã gánh chịu từ ngày 07/12/2011 vì chồng cô có nguồn tiền để thanh toán các chi phí này.
Toàn bộ nội dung đơn kiện được siêu mẫu Ngọc Thúy chia sẻ trên trang cá nhân: Tôi, Thúy Phạm, xác nhận rằng: 1. Tôi là nguyên đơn và tôi yêu cầu Tòa Án ban hành các lệnh sau: a. Ra lệnh cho bị đơn hủy bỏ vụ kiện đang chờ xét xử tại Tòa Án Tp. HCM về Tranh Chấp Quyền Sở Hữu Tài Sản, Vụ Kiện số 78/2010/TLST DS và Vụ Kiện số406/2011/DSST (“VỤ KIỆN TẠI VIỆT NAM”) và không được tiến hành bất kỳ hành động nào khác tại Việt Nam để cản trở [việc thực hiện] các lệnh đã tuyên trong Thỏa Thuận về việc Giải Quyết Các Vấn Đề đã được lập vào ngày 07/12/2011 (“THỎA THUẬN 2011”). b. Cho phép tôi được gia hạn thời gian chuyển các tài sản còn lại tại Việt Nam vào một công ty tín thác cho các con. c. Chuyển vụ việc này sang quy trình giải quyết vụ kiện trên cơ sở gia đình là trọng tâm và ra lệnh cho bị đơn phải tham dự để các bên thực hiện theo đúng THỎA THUẬN 2011. d. Ra lệnh cho bị đơn không được chuyển nhượng, gây trở ngại, thế chấp, cất giấu hoặc thanh lý bằng cách khác bất kỳ tài sản nào tại Hoa Kỳ, bao gồm nhưng không giới hạn các tài sản sau đây: 1) 16872 Coral Cay Lane, Huntington Beach, California; e. Cho phép tôi thực hiện các bước tiếp theo để bảo đảm lệnh hạn chế đối với tài sản của bị đơn: 1) Lưu giữ bất kỳ và tất cả thông báo hoặc hồ sơ khác về các bất động sản tại Hoa Kỳ mà bị đơn có quyền lợi trong đó nhằm duy trì quyền của tôi để có thu nhập dành cho việc cấp dưỡng các con. 2) Gửi thông báo về các lệnh hạn chế về tài sản đến bất kỳ tổ chức tài chính nào tại Hoa Kỳ đang nắm giữ nguồn tài chính của bị đơn. 2. Cá nhân tôi biết về các vấn đề sau đây và sẽ làm chứng về việc này khi được triệu tập. 3. Bị đơn và tôi kết hôn tại Newport Beach ngày 01/09/2006. Lúc đó tôi 26 tuổi. Bị đơn 44 tuổi. Tôi từ Việt Nam chuyển đến Newport Beach để sống với bị đơn và chúng tôi có hai con gái: Angeline Nguyễn sinh ngày 31/05/2007, Valentina Nguyễn sinh ngày 30/10/2008. Chúng tôi đã ly dị ngày 27/03/2008 tại Orange County [Quận Cam]. Sau đó bị đơn chuyển về Việt Nam. 4. Vào ngày 07/12/2011, chúng tôi cùng lập Thỏa Thuận về việc Giải Quyết Các Vấn Đề (“THỎA THUẬN 2011”) sau phiên hòa giải kéo dài 9 giờ trước Thẩm phán Sharon Chatman, tại Phòng 71 của Toà Án Cấp Cao của Quận Santa Clara. THỎA THUẬN 2011 (xem, bản sao – Phụ lục A) nêu rõ, phân chia và phán quyết về toàn bộ tài sản tại Việt Nam và Hoa Kỳ. THỎA THUẬN 2011 không quy định về việc cấp dưỡng con cái theo truyền thống. Thay vào đó, nhằm đảm bảo đạt được thỏa thuận, tôi đã đồng ý nhận 05 căn hộ Avalon ở Việt Nam thay cho khoản cấp dưỡng con cái. Phần tài sản còn lại tại Việt Nam sẽ được đưa vào một công ty tín thác để phục vụ lợi ích của các con của chúng tôi (“CÔNG TY CỦA CÁC CON”). Xem, Phụ lục A. 5. Từ đầu năm 2012, bị đơn đã tìm mọi cách để cản trở việc thực hiện THỎA THUẬN 2011. Bị đơn đã trực tiếp vi phạm các điều khoản của THỎA THUẬN 2011 và các hành động của bị đơn làm tôi không thể chuyển nhượng một số tài sản vào CÔNG TY CỦA CÁC CON. 6. Đoạn 24 của THỎA THUẬN 2011 nêu rõ: “Các Bên phải xin lệnh của tòa án tại Việt Nam phù hợp với các điều khoản và điều kiện được nêu trong Thỏa Thuận này để có thể được thực thi tại Việt Nam.” Bị đơn đang đẩy tòa án California và tòa án Việt Nam vào thế đối đầu với nhau bằng cách khởi kiện lại tại Việt Nam (được trình bày dưới đây) để đạt được các phán quyết của tòa án trái ngược hoàn toàn với THỎA THUẬN 2011. (Bản sao – Phụ lục B). 7. Bị đơn cũng đã tìm cách để lôi kéo mẹ tôi, đang sống tại Việt Nam, chuyển nhượng cho bị đơn phần bất động sản khoảng 1.000.000,00 USD. Tài sản này theo lệnh của toà phải được chuyển vào CÔNG TY CỦA CÁC CON. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC HÀNH VI CỦA BỊ ĐƠN 8. Trong vòng 6 năm, bị đơn đã không tuân theo các lệnh của tòa và đã qua mặt cả tòa án Hoa Kỳ và tòa án Việt Nam bằng cách nộp hồ sơ giả mạo và khai man. Bị đơn nhiều lần tìm cách đạt được những kết quả tốt hơn tại tòa án Việt Nam về các vấn đề đã được quyết định tại California. Bị đơn đã có được quyết định ly dị vào ngày 20/11/2007 (“Bản Án 2007”) tại Orange County [Quận Cam], theo đó quyết định bị đơn sở hữu toàn bộ tài sản, bao gồm các tài sản riêng của tôi và ấn định khoản cấp dưỡng con cái dưới mức quy định. Bản Án 2007 đã bị hủy bỏ vào ngày 26/08/2009 bằng một thỏa thuận, vì Quyết Định đó không hợp lý và được thực hiện bằng cách gian lận. 9. Vào ngày 11/03/2010, bị đơn đã khởi kiện dân sự về tranh chấp tài sản tại Việt Nam (“VỤ KIỆN TẠI VIỆT NAM”), theo đó bị đơn đính kèm Bản Án 2007 đã bị bác bỏ (đã mất hiệu lực), tuyên bố một cách giả dối rằng Quyết Định đó có hiệu lực và rằng tòa án Orange County [Quận Cam] đã phán quyết bị đơn được sở hữu tất cả tài sản mà tôi đang đứng tên tại Việt Nam. Việc khởi kiện này đã vi phạm lệnh của phía tòa Orange County [Quận Cam] ngăn cản cả hai bên không được thực hiện bất kỳ hành động nào để chuyển nhượng tài sản tại Việt Nam. 10. Bị đơn đã cản trở tôi thực hiện theo THỎA THUẬN 2011. THỎA THUẬN 2011 yêu cầu tôi chuyển nhượng toàn bộ tài sản do tôi hoặc thành viên gia đình tôi đứng tên vào CÔNG TY CỦA CÁC CON trong vòng 30 ngày. Tài sản mà tôi được tòa ra lệnh chuyển nhượng gồm: 1) 04 căn hộ Sailing Tower tại Tp. HCM; 2) 05 biệt thự Sea Links tại Tp. Phan Thiết, Việt Nam; 3) biệt thự số N4-5 tại Tp. HCM; 4) lô đất tại Tp. Vũng Tàu; 5) 31\% cổ phần trong Công ty Sao Mai tại Tp. Vũng Tàu; 6) VW Beetle 2007 và 7) Vespa 2007 màu vàng. Tôi đã không thể thực hiện đầy đủ việc này do các hành vi của bị đơn nên tôi yêu cầu gia hạn thời gian. Bị đơn từ chối không làm việc với tôi để thành lập CÔNG TY CỦA CÁC CON. Luật sư của tôi đã gửi các thư điện tử và nhiều thư khác yêu cầu bị đơn cùng hợp tác, vào ngày 17/01/2012 luật sư của bị đơn đã chấp thuận về “việc gia hạn để ngỏ không hạn chế” để chúng tôi chuyển nhượng tài sản. Vào ngày 21/05/2012, bị đơn đã chấm dứt việc gia hạn. Vào tháng 07/2012, với sự giúp đỡ của một hãng luật do tôi thuê tại Việt Nam, cuối cùng tôi đã có thể thành lập CÔNG TY CỦA CÁC CON. Cũng vào tháng 07/2012, tôi đã chuyển nhượng biệt thự số N4 và N5 vào công ty. 11. Sau đó tôi yêu cầu mẹ tôi chuyển nhượng 05 biệt thự Sea Link Golf và Country Club nằm tại Tp. Phan Thiết, Việt Nam (“Các Biệt Thự Sea Link”) cho tôi để tôi có thể chuyển các biệt thự này vào CÔNG TY CỦA CÁC CON. Bà ấy đã từ chối. Vào mùa thu năm 2012, tôi được biết rằng bị đơn đã chỉ dẫn mẹ tôi từ chối [chuyển nhượng]. 12. Vào giữa tháng 09/2012, tôi đáp máy bay về Việt Nam để trực tiếp nói chuyện với mẹ tôi. Bà ấy đã đồng ý chuyển nhượng Các Biệt Thự Sea Link vào CÔNG TY CỦA CÁC CON. Vào ngày tiếp theo tôi tình cờ nghe mẹ tôi nói chuyện với bị đơn qua điện thoại (mẹ tôi đã gọi tên của bị đơn), và nói với bị đơn rằng bà sẽ thực hiện mọi việc theo yêu cầu của bị đơn. Sau khi gác máy điện thoại, mẹ tôi đã từ chối chuyển nhượng Các Biệt Thự Sea Link. Sau đó ba tôi đã ra tối hậu thư, buộc tôi đưa 02 con gái về Việt Nam cho bị đơn và phải liên lạc với bị đơn nếu tôi không muốn cuộc sống của mình bị hủy hoại và dính líu thêm vào việc kiện tụng. Ba tôi cũng bảo tôi rằng mẹ tôi chỉ chuyển nhượng Các Biệt Thự Sea Link nếu có lệnh của tòa án. Bị đơn biết rằng tôi không thể đưa cho mẹ tôi xem lệnh của tòa án vì THỎA THUẬN 2011 đã được niêm phong và các luật sư được lệnh không gửi bảo sao cho bất kỳ bên nào. Tất cả thành viên trong gia đình tôi thừa nhận rằng trước đây đã họp với bị đơn tại nhà, và rằng mọi người sẽ cùng hợp tác với bị đơn để gây xáo trộn cuộc sống của tôi tại Hoa Kỳ. 13. Khi tôi quay về Hoa Kỳ, tôi đã trình đơn thỉnh nguyện mở niêm phong THỎA THUẬN 2011. Thẩm phán Chatman đã mở niêm phong THỎA THUẬN 2011 và biên bản phiên tòa để bảo vệ tôi và hai con gái của tôi khỏi cơn bão truyền thông do bị đơn gây ra. Bị đơn đã liên lạc với giới truyền thông Việt Nam và theo đó hàng loạt bài báo xuyên tạc và phỉ báng tôi đã được tung ra. Vào năm 2011, nếu quý vị gõ tên tôi trên công cụ tìm kiếm Google sẽ có trên 50.700 kết quả xuất hiện. Bị đơn sau đó gửi hình ảnh hai con gái chúng tôi đến giới truyền thông Việt Nam khiến các hình ảnh đó lan truyền khắp trên mạng Internet. Tôi bắt đầu bị đe dọa giết chết lẫn những lời lẽ đe dọa hung hăng khác. Các con của tôi có nguy cơ bị bắt cóc. Bị đơn đã đưa một phóng viên Việt Nam đến California để đồng hành với bị đơn đến tham dự phiên giải quyết tranh chấp theo yêu cầu ngày 28/11/2011. Bị đơn thông báo với vị thẩm phán tạm thời rằng phóng viên này là một người bạn theo hỗ trợ. Một bài báo đã được tung ra hai ngày sau đó tường trình đầy đủ thông tin của phiên đàm phán này. Bị đơn cũng đưa phóng viên này đến tham dự phiên hòa giải diễn ra suốt ngày 07/12/2011, nhưng tại đây Thẩm phán Chatman đã ra lệnh cho chấp hành viên của tòa đưa phóng viên này ra khỏi phòng xử án và đóng cửa phiên giải quyết tranh chấp. 14. THỎA THUẬN 2011 yêu cầu bị đơn “ngay lập tức hoãn lại các thủ tục khiếu kiện” tại Việt Nam có liên quan đến tôi hoặc bất kỳ tài sản nào trong THỎA THUẬN 2011. Vào tháng 01/2012, bị đơn đã khởi kiện lại VỤ KIỆN TẠI VIỆT NAM (Bản sao – Phụ lục B). Bị đơn đã lôi mẹ tôi vào VỤ KIỆN TẠI VIỆT NAM và hiện nay họ đều thuê chung một luật sư. Tôi tin rằng bị đơn đang trả phí để luật sư này đại diện cho mẹ tôi. Vào ngày 16/10/2012, mẹ tôi nộp một bản khai trong đó trình bày sai lệch rằng toàn bộ tài sản tại Việt Nam là của bị đơn. Rõ ràng rằng bị đơn đang hợp tác với mẹ tôi như bản khai của mẹ tôi đã nêu rõ “Đây cũng là mong muốn của Ông Nguyễn Đức An.” 15. Vào ngày 08/01/2013, tòa án Việt Nam đã ra “thông báo khởi kiện” yêu cầu tôi phản hồi về khiếu nại của bị đơn rằng Bản Án 2007 có hiệu lực và rằng toàn bộ tài sản nêu trong THỎA THUẬN 2011 sẽ được chuyển vào CÔNG TY CỦA CÁC CON, bao gồm các tài sản đã được phán quyết giao cho tôi. 16. Vào tháng 07/1013, tôi đã xuất hiện và trình cho tòa án Việt Nam bản sao của THỎA THUẬN 2011. Tôi đã thuê một biên dịch viên Việt Nam dịch THỎA THUẬN 2011 để nộp tại Việt Nam. Vào ngày 20/07/2013, bị đơn yêu cầu áp dụng lệnh khẩn cấp tạm thời trong VỤ KIỆN TẠI VIỆT NAM để ngăn cản tôi quay về Hoa Kỳ với hai con gái của tôi. 17. Vào ngày 09/08/2013, bị đơn có mặt tại tòa án Việt Nam cùng với mẹ tôi và khai rằng THỎA THUẬN 2011 không thể thi hành. Một bài báo về vụ việc này ngay lập tức lại được tung ra. 18. Vào ngày 23/08/2013, mẹ tôi nộp thêm một bản khai cam kết sẽ chuyển tài sản do bà đứng tên cho bị đơn. 19. Bị đơn tiếp tục liên lạc với giới truyền thông để tung ra những thông tin sai lệch về tôi và vụ ly dị của chúng tôi. Điều này có thể gây ảnh hưởng đến tòa án Việt Nam. Điều này chắc chắc dẫn đến hậu quả rằng các công ty đã bán Các Biệt Thự Sea Link và các bất động sản khác cho tôi từ chối thực hiện các thủ tục cần thiết để tôi có thể chuyển tài sản vào CÔNG TY CỦA CÁC CON do lo sợ gặp rắc rối với vụ kiện tại Việt Nam. 20. Tôi đã không thể chuyển nhượng các tài sản sau đây vào CÔNG TY CỦA CÁC CON vì lý do sau đây: a) Các căn hộ Sailing Tower (Sailing Towers đang trong quá trình xin cấp giấy chứng nhận cho bất động sản vì chưa có đầy đủ quyền sở hữu đất, do đó không thể cấp đầy đủ các quyền sở hữu cho tôi vào thời điểm này). 21. Tôi cần bị đơn hợp tác với tôi để thực hiện theo THỎA THUẬN 2011 và tiến hành việc chuyển nhượng. Thay vào đó, bị đơn chỉ chăm chăm vào việc chống đối, cản trở và phá hỏng mọi nỗ lực của tôi. Khó khăn trong quá trình chuyển nhượng là do các tài sản này nằm tại Việt Nam và việc chuyển nhượng phải tuân theo pháp luật Việt Nam và các thủ tục hành chính tại đây, đồng thời phải đóng các khoản thuế và phí. Không ai trong chúng tôi biết rằng sẽ có những vấn đề nào liên quan đến khi chúng tôi lập một thỏa thuận được gọi là THỎA THUẬN 2011. Tôi đã tốn kém nhiều thời gian và tiền bạc để tìm cách chuyển nhượng các tài sản này. Tôi đề nghị Tòa Án ra lệnh gia hạn thêm thời hạn chuyển nhượng tài sản cho đến khi bị đơn hủy bỏ VỤ KIỆN TẠI VIỆT NAM và chấm dứt hành vi phá hỏng mọi nỗ lực của tôi. QUÁ TRÌNH GÂY BẠO LỰC GIA ĐÌNH 22. Vào ngày 01/06/2008, bị đơn đã đánh, tát vào mặt tôi và ấn tôi xuống đất trong phòng khách sạn tại Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam, trong khi tôi đang mang thai 5 tháng. Bị đơn đã làm trầy xước và làm bầm má và cổ tôi khi đang cố bóp cổ tôi. Xem giấy khám sức khỏe mô tả tổn thương thể chất do “bị bạo hành” (Bản sao – Phụ lục C). 23. Bị đơn tiếp tục dựng lên những câu chuyện truyền thông mà bị đơn biết rằng sẽ tạo ra sự căm ghét, sẽ gây phiền toái và nguy hiểm cho tôi và các con. Thực chất đây chỉ là mưu đồ và sự thù hằn dai dẳng như khi bị đơn đẩy tòa án California và tòa án Việt Nam vào thế đối đầu với nhau. Hiện nay tôi không biết làm cách nào để dứt ra khỏi tình trạng bị lôi kéo vào việc kiện tụng của bị đơn trong quãng thời gian còn lại trong cuộc đời tôi. Tôi chỉ mong muốn có được khoản cấp dưỡng cho các con gái của tôi và kết thúc vụ việc này. PHÍ LUẬT SƯ 24. Tôi đã gánh chịu các chi phí và phí tổn đáng kể từ khi có THỎA THUẬN 2011 do bị đơn liên tục tìm mọi cách để cản trở [việc thực hiện] thỏa thuận này. Ngoài ra, bị đơn còn vi phạm đoạn 22 của THỎA THUẬN 2011 trong đó có nêu: “Các điều khoản và điều kiện được nêu trong Thỏa thuận này sẽ được lập thành bản Phán Quyết, và Các Bên sẽ hợp tác cùng nhau trong việc soạn thảo và ký kết các văn bản cần thiết để thực hiện theo phán quyết cuối cùng trong vụ kiện này”. Bị đơn đã từ chối ký các văn bản về phán quyết và tôi buộc phải nộp đơn đề nghị lập phán quyết. Bị đơn đã không xuất hiện tại cả hai phiên tòa. Chúng tôi vẫn chưa có phán quyết vì chi phí xin lệnh để lập phán quyết rất cao nếu lệnh đã được niêm phong và bị đơn từ chối hợp tác. 25. Tôi đề nghị tòa ra lệnh cho bị đơn thanh toán toàn bộ chi phí và phí tổn mà tôi đã gánh chịu từ ngày 07/12/2011. Bị đơn có nguồn tiền để thanh toán các chi phí này. THỎA THUẬN 2011 xác nhận rằng tài sản nằm tại 16872 Coral Cay Lane, Huntington Beach, California và 39045 N. Shore Drive, Fawnskin, California và các tài khoản tại Ngân hàng Ironstone là tài sản riêng của bị đơn. Bị đơn còn được phán quyết hưởng tất cả thu nhập từ việc bán 42 Pelican Point, Newport Beach, (7 triệu USD theo hồ sơ thuế lợi tức 2008 của bị đơn). Theo THỎA THUẬN 2011, tôi cũng từ bỏ các quyền lợi tại 10 Shadowcast, Newport Beach, California. Theo sự hiểu biết của tôi, bị đơn vẫn đang sở hữu: Trong khi đó bị đơn không sở hữu tài sản tại 10 Shadowcast, Newport Beach, California (chị của bị đơn đang sở hữu). Theo sự hiểu biết của tôi, bị đơn đã thực hiện thanh toán khoản trả trước 1 triệu đô la Mỹ cho bất động sản này và có quyền lợi hợp lý trong tài sản đó. (Bản sao – Phụ lục J là kết quả tìm kiếm Zillow cho thấy giá thị trường hiện hành theo ước tính là 2.678.037 USD). Bị đơn nhận được các khoản thanh toán hàng tháng từ việc bán quyền lợi trong Paddy Murphy Inc., là công ty hiện sở hữu một câu lạc bộ tên “Ecstasy Theatres” ở Nam California (thanh toán 1 triệu USD trên 10 năm) theo bản khai chi phí và thu nhập 2010 của bị đơn. Năm 2010 các khoản thanh toán đó là 9.569 USD/tháng. Bản sao – Phụ lục F. Tháng 12.2013. Đã ký |
Tiểu Quỳnh