Theo Đề án Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020, có xét đến năm 2030 (Quy hoạch điện VII điều chỉnh) đã chỉ rõ với mức tăng trưởng kinh tế bình quân khoảng 7%/năm, nhu cầu điện của nước ta vào năm 2020 sẽ vào khoảng 235 – 245 tỉ kWh/năm, tương đương tổng công suất hơn 52 ngàn MW.
Dự kiến đến năm 2020, chỉ tính riêng tổng công suất nhiệt điện than cả nước cần khoảng khoảng 131 tỷ kWh điện (chiếm khoảng 49,3% lượng điện) nhưng thực tế cả nước hiện có 19 dự án nhà máy nhiệt điện theo hình thức Xây dựng-Kinh doanh-Chuyển giao (BOT), trong đó mới có ba dự án đi vào vận hành (gồm: Phú Mỹ 2, Phú Mỹ 3 và Mông Dương 2), hai dự án đang xây dựng và một dự án chuẩn bị khởi công. Như vậy có tới 16 dự án còn lại đang tiến hành đàm phán và hoàn thiện hồ sơ - nghĩa là đang còn nằm trên giấy.
NMNĐ Thái Bình 2 đang rất cần sự quan tâm của Đảng và Nhà nước để sớm về đích. |
Bởi vậy, nhu cầu bổ sung thêm các nguồn điện mới luôn là vấn đề cấp bách đối với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Thực hiện trách nhiệm này, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đã liên tục đầu tư các dự án nguồn điện từ năm 2007. Tập đoàn đã đưa vào vận hành an toàn, hiệu quả 04 Nhà máy nhiệt điện khí, 03 Nhà máy thủy điện, 01 Nhà máy nhiệt điện than với quy mô công suất 4.208,2 MW. Đồng thời, để đảm bảo nhu cầu phát triển nguồn điện theo chiến lược đã đề ra, PVN đang đẩy nhanh công tác nghiên cứu phát triển các dự án điện Khí từ nguồn nhiên liệu khí (Dự án điện khí Kiên Giang sử dụng khí Lô B, Dự án điện Khí sử dụng Khí từ mỏ Cá Voi Xanh) và các dự án điện khí LNG (Nhơn Trạch 3, Sơn Mỹ 2).
Về nhiệt điện than, PVN đã hoàn thành Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 và đang hoạt động có hiệu quả; đồng thời đang tập trung đẩy nhanh tiến độ 03 Dự án Nhiệt điện than là Long Phú 1, Sông Hậu 1, Thái Bình 2. Đặc biệt, trong bối cảnh 3 – 4 năm sắp tới không có dự án nguồn điện lớn nào hoàn thành, việc đưa NMNĐ Thái Bình 2 vào phát điện (đã hoàn thành hơn 83% tổng khối lượng các hạng mục xây dựng và lắp đặt thiết bị chính) có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Trong quá khứ, đã xảy ra một số sai phạm tại dự án Nhiệt điện Thái Bình 2. Các cơ quan chức năng đã xử lý các cá nhân vi phạm theo đúng quy định của pháp luật. Một số vấn đề liên quan đến vi phạm như thu hồi tài sản nhà nước thất thoát từ dự án sẽ tiếp tục được các cơ quan chức năng xử lý. Nhưng đây không thể là lý do để tiếp tục ảnh hưởng tới công tác triển khai dự án.
Ở đây, chúng ta cần phải đánh giá dự án một cách khách quan, tách bạch trên lợi ích quốc gia như Lãnh đạo Bộ Công Thương đã phát biểu tại buổi làm việc của Thủ tướng với lãnh đạo tỉnh Thái Bình mới đây: “Không có lý do gì để thất thoát tài sản, thất thoát nguồn lực lớn như vậy, nhất là khi dự án có điều kiện để hoàn thành”.
Với công suất thiết kế 1.200MW, Dự án NMNĐ Thái Bình 2 sẽ cung cấp ổn định cho hệ thống điện quốc gia khoảng 7,2 tỉ kWh điện thương phẩm/năm. Đây là nhà máy có ý nghĩa quan trọng đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Chính vì lẽ đó, tại lễ khánh thánh NMNĐ Thái Bình 1, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết, Chính phủ đã báo cáo Bộ Chính trị để giải quyết các vấn đề của dự án NMNĐ Thái Bình 2 với mục tiêu là hoàn thành vào năm 2020, qua đó hoàn thành Trung tâm Nhiệt điện Thái Bình.
Sớm về đích, phát điện, NMNĐ Thái Bình 2 sẽ đóng góp vào lưới điện quốc gia. |
Đây có thể xem là hạn chót mà Chính phủ đặt ra đối với PVN trong việc triển khai Dự án Nhiệt điện Thái Bình 2. Nhưng rõ ràng, để cụ thể hoá chủ trương này thì một mình PVN không thể giải quyết được do rất nhiều khó khăn, vướng mắc, đặc biệt là vấn đề tài chính cho các hạng mục còn lại (vì từ tháng 9/2018, các ngân hàng đã tạm ngừng giải ngân nguồn vốn vay nên dự án bị thiếu vốn. PVN đã chủ động bù đắp sự thiếu hụt từ nguồn vốn chủ sở hữu nhưng cũng chỉ là tạm thời và mang tính “nhỏ giọt”).
Với tinh thần đó để xử lý các vấn đề tồn tại của NMNĐ Thái Bình 2, có thể hình dung ra 2 kịch bản như sau: Thứ nhất là tiến hành đánh giá lại hiệu quả dự án làm căn cứ xem xét bổ sung nguồn tài chính triển khai dự án. Thứ hai là khơi nguồn tài chính, có cơ chế kiểm soát chặt chẽ về tài chính để dự án về đích phát điện phục vụ đất nước.
Với phương án thứ nhất, có thể thấy, Dự án NMNĐ Thái Bình 2 sẽ lại rơi vào tình huống lưỡng nan, “khó hẹn ngày về”, bởi để tiến hành đánh giá lại hiệu quả dự án sẽ mất rất nhiều thời gian. Việc kéo dài dự án khiến các chi phí quản lý, khấu hao, trả lãi ngân hàng… tăng cao. Điều này sẽ dẫn tới sự lãng phí nghiêm trọng bởi theo thông tin của chúng tôi có được, với 32 ngàn tỉ đồng đã đầu tư (đến thời điểm hiện tại gồm cả vốn vay và vốn chủ sở hữu), thì mỗi ngày chi phí vốn khoảng 6 tỉ đồng tiền lãi; mặt khác, tài sản đã đầu tư mà không hoàn thành Nhà máy thì ngày càng mất giá trị và không có hy vọng thu hồi vốn gốc.
Với kịch bản thứ 2, cơ hội để dự án NMNĐ Thái Bình 2 sớm hoàn thành, có thể thu hồi vốn đầu tư là khá rõ. Chẳng hạn, nếu giờ bỏ thêm 2,5 ngàn tỷ đồng để hoàn thành khoảng 17% khối lượng công việc còn lại, đưa nhà máy vào vận hành thì lợi ích mang lại rất rõ ràng. Đó là hệ thống điện quốc gia sẽ được bổ sung 7,2 tỉ kWh điện mỗi năm, qua đó làm giảm nguy cơ thiếu điện. Mặt khác, dự án hoạt động sẽ tạo doanh thu để từ đó Chủ đầu tư thực hiện các nghĩa vụ tài chính với các tổ chức tài trợ vốn cho dự án, đóng góp lớn vào ngân sách và tạo hàng ngàn việc làm cho người dân địa phương…
Được biết, thời gian qua, nhận thức được tầm quan trọng của dự án, toàn bộ hệ thống chính trị của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) đã nỗ lực vào cuộc với mục đích đẩy nhanh tiến độ dự án NMNĐ Thái Bình 2. Lãnh đạo và người lao động PVN đã nỗ lực tháo gỡ khó khăn, đối thoại và gặp gỡ trực tiếp với các nhà thầu xây dựng dự án để tìm ra phương án cụ thể giải quyết các vấn đề liên quan như công nợ của các nhà thầu về vật tư, nhân công.
Đặc biệt, PVN đã phối hợp với lãnh đạo tỉnh Thái Bình tuyên truyền, ổn định tư tưởng của người dân trong và quanh khu vực dự án. Bởi đơn giản dự án chính là sự mong chờ khắc khoải của người dân địa phương, nhất là người dân huyện Thái Thụy, những người đã hy sinh đất đai, nhà cửa để xây dựng Trung tâm điện lực Thái Bình, nguồn điện quan trọng cho phát triển kinh tế vùng Duyên hải Bắc bộ.
Có thể thấy rằng, sự cấp bách về nguồn điện phát triển kinh tế quốc gia, nỗ lực của những người Dầu khí chân chính, sự mong đợi từng ngày của chính quyền và nhân dân Thái Bình… vẫn chưa thể khiến dự án NMNĐ Thái Bình 2 bước thêm một bước cuối cùng để về đích bởi những khó khăn vướng mắc xuất phát từ cơ chế, thuộc thẩm quyền xử lý của các Bộ, ngành, Chính phủ. Tín hiệu tích cực là Thường trực Chính phủ đã họp bàn riêng về dự án NMNĐ Thái Bình 2 và đã có kết luận để tháo gỡ các khó khăn nhưng văn bản cuối cùng về “số phận” của nhà máy nhiệt điện trên quê lúa vẫn đang được chủ đầu tư và các nhà thầu thi công mong chờ.
Dự án NMNĐ Thái Bình 2 là một trong những dự án nguồn điện cấp bách được hưởng cơ chế đặc biệt trong Quyết định 2414 của Chính phủ ký ngày 11/12/2013. Tính đến nay, quyết định này đã có hiệu lực 5 năm nhưng vẫn chưa có hướng dẫn cho một số nội dung còn vướng mắc. Việc triển khai thiếu sự hướng dẫn cụ thể của các cơ quan quản lý cấp Nhà nước có thể dẫn đến việc vi phạm pháp luật hiện hành. |
Bùi Huyền