Các sản phẩm cá nhân đặt mua trực tuyến từ nước ngoài gửi về Việt Nam, hoặc ngược lại sẽ phải chịu thuế nhập/xuất khẩu theo quy hiện hiện hành thông qua các đơn vị vận chuyển hàng. Đây là nội dung với dự thảo Nghị định quản lý hàng hóa xuất/nhập khẩu theo diện mua bán qua thương mại điện tử đang được bộ Tài chính gửi lấy ý kiến các bộ ngành, địa phương. Trong đó, bộ Tài chính đề xuất chính sách để chặn tình trạng né thuế khi mua hàng nhập khẩu qua thương mại điện tử (TMĐT).
Dự thảo nghị định này nhằm vào quản lý thủ tục hải quan, thuế xuất/nhập khẩu với hàng hóa giao dịch qua TMĐT (như qua Amazon, Alibaba, website thương mại). Người mua hàng, chủ sàn TMĐT (hoặc qua địa lý làm thủ tục hải quan, đơn vị vận chuyển) có trách nhiệm kê khai hải quan và nộp thuế.
Bộ Tài chính đề xuất xây dựng hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan với hàng hóa xuất/nhập khẩu qua giao dịch trực tuyến, do Tổng cục Hải quan quản lý. Hệ thống sẽ tiếp nhận, tích hợp, chia sẻ thông tin về đơn hàng từ phía người bán hoặc sàn giao dịch thương mại...
Hiện chưa có quy định riêng về chính sách thuế cho hàng hóa nhập khẩu giao dịch qua TMĐT nên khi thực hiện các thủ tục hải quan, thủ tục liên quan đến lĩnh vực quản lý của các bộ, ngành, người mua hàng qua thương mại điện tử tại Việt Nam gặp khó khăn trong việc nhận hàng hóa được mua từ nước ngoài. Do đó, hình thành nên một bộ phận thực hiện việc mua hộ hàng hóa trên website và vận chuyển số hàng hóa này về Việt Nam theo các con đường không chính thống, đặc biệt là qua biên giới đường bộ gây khó khăn trong công tác đấu tranh đối với các hành vi gian lận thương mại.
Vì vậy, cần thiết phải có những quy định để kiểm soát đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu giao dịch qua thương mại điện tử nhưng vẫn đảm bảo thuận lợi để người mua, người bán tuân thủ thực hiện đúng theo quy định pháp luật.
Theo dự thảo, về đối tượng áp dụng: Ngoài các đối tượng tương tự như các trường hợp xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thông thường, thì tại dự thảo Nghị định quy định thêm các đối tượng là chủ sở hữu sàn giao dịch thương mại điện tử, website thương mại điện tử bán hàng ví dụ như sàn thương mại điện tử Amazon ở Mỹ, sàn thương mại điện tử Alibaba ở Trung Quốc, quy định này tương đồng với quy định người nộp thuế tại Luật Quản lý thuế.
Về thuế, mức thuế thu trên hàng hóa mua bán xuyên biên giới qua thương mại điện tử được tính và nộp thuế theo danh mục thuế với hàng hóa xuất/nhập khẩu thông thường. Số thuế sẽ tính trên toàn bộ giá trị số hàng hóa xuất/nhập khẩu.
Trừ hàng miễn thuế, các loại thuế người mua hàng phải nộp gồm: Thuế xuất/nhập khẩu, thuế bổ sung (như thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ), thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường, thuế giá trị gia tăng.
Đặc thù mua bán hàng hóa qua TMĐT xuyên biên giới chủ yếu được đặt mua vào các dịp giảm giá, khuyến mại, thanh toán trực tuyến và hàng được chuyển trực tiếp tới người nhận. Do đó, bộ Tài chính đề xuất giá tính thuế và kê khai hải quan căn cứ theo trị giá giao dịch thực trên trên hóa đơn, chứng từ thanh toán và tài liệu khác (gồm cả chi phí vận tải và bảo hiểm quốc tế nếu có).
Hàng hóa nhập khẩu giao dịch qua TMĐT hiện chưa có quy định riêng về chính sách thuế, hiện nay theo quy định của pháp luật về thuế nhập khẩu có quy định hàng hóa nhập khẩu gửi qua dịch vụ bưu chính, dịch vụ chuyển phát nhanh (không phân biệt hàng hóa thương mại điện tử hay hàng hóa khác) có trị giá hải quan từ 1.000.000 đồng trở xuống hoặc có tổng số thuế từ 100.000 đồng trở xuống thì được miễn thuế nhập khẩu (Theo khoản 11 Điều 1 Nghị định số 18/2021/NĐ-CP của Chính phủ), tuy nhiên Nghị định số 18/2021/NĐ-CP chưa quy định cụ thể số lần hoặc cụ thể lô hàng được miễn thuế, do vậy dẫn đến việc người khai hải quan lợi dụng chính sách này để chia nhỏ lô hàng nhằm mục đích miễn thuế.
Vì vậy, việc xây dựng các quy định như trên để bảo đảm công tác quản lý, ngăn chặn trốn thuế và tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa qua TMĐT.
Dự thảo Nghị định quy định cụ thể như sau:
“Mỗi tổ chức, cá nhân mua hàng chỉ được hưởng tiêu chuẩn miễn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu quy định tại điểm a, điểm b dưới đây không quá 1 đơn hàng/ngày và không quá 4 đơn hàng/tháng:
a) Hàng hóa nhập khẩu có trị giá hải quan theo từng đơn hàng từ 1.000.000 đồng Việt Nam trở xuống;
b) Hàng hóa nhập khẩu có trị giá hải quan theo từng đơn hàng trên 1.000.000 đồng Việt Nam nhưng có tổng số tiền thuế nhập khẩu phải nộp dưới 100.000 đồng Việt Nam.
Trường hợp hàng hóa nhập khẩu giao dịch qua thương mại điện tử có trị giá hải quan theo từng đơn hàng trên 1.000.000 đồng Việt Nam và có tổng số tiền thuế nhập khẩu phải nộp trên 100.000 đồng Việt Nam thì phải nộp thuế nhập khẩu đối với toàn bộ trị giá hàng hóa nhập khẩu.”
Để hạn chế việc lợi dụng chính sách ưu đãi về thuế đối với hàng hóa gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh, bưu chính theo quy định tại Nghị định số 18/2021/NĐ-CP cũng như để đồng bộ chính sách ưu đãi về thuế giữa hàng hóa gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh, bưu chính với hàng hóa giao dịch qua thương mại điện tử, bộ Tài chính đề xuất định mức miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa gửi qua dịch vụ bưu chính phải được áp dụng theo định mức đối với hàng nhập khẩu giao dịch qua TMĐT như đề xuất trên.
Bộ Tài chính đề xuất áp dụng quy định mới từ ngày 1/1/2023.
Bạch Hiền (t/h)