Guinea Xích đạo vừa xác nhận đợt bùng phát đầu tiên của virus Marburg – loại virus có liên quan chặt chẽ với Ebola và có thể khiến 88% số người nhiễm bệnh tử vong. Mặc dù chỉ có 1 trường hợp được xác nhận nhiễm virus Marrburg, 16 người bị nghi nhiễm và 9 trường hợp trong số đó đã tử vong.
Ngoài ra, hơn 4.000 người đang phải cách ly tại nhà. Nước láng giềng Cameroon cũng hạn chế di chuyển dọc biên giới. “Marburg luôn rất nghiêm trọng và chúng tôi rất lo ngại”, Giáo sư Jimmy Whitworth – chuyên gia về các bệnh truyền nhiễm ở Trường Y học Nhiệt đới và Vệ sinh London (Anh) cho hay.
Một chuyên gia khác về sốt xuất huyết chia sẻ với Telegraph rằng, có thêm mối lo ngại khi Guinea Xích Đạo không có kinh nghiệm chống lại virus họ filovirus, bao gồm cả Marburg và Ebola. Có nguồn tin tiết lộ trong số những người nhiễm virus có nhân viên y tế.
Tại một cuộc họp khẩn cấp do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tổ chức hôm 14/2, cơ quan chức trách địa phương thông báo bệnh xuất hiện một tháng trước, vào ngày 7/1 và bộ Y tế đã được cảnh báo 4 tuần sau đó.
George Ameh – đại diện quốc gia của WHO tại Guinea Xích Đạo chia sẻ: “Việc giám sát đã được tăng cường. Truy vết những người từng tiếp xúc với ca bệnh là nền tảng để ứng phó với dịch bệnh. Chúng tôi đã triển khai lại các nhóm công tác trong đợt dịch COVID-19 tại địa phương nhằm theo dõi việc tiếp xúc và nhanh chóng trang bị thêm cho họ nếu cần thiết”.
Guinea Xích Đạo đã xét nghiệm virus sau cái chết không rõ nguyên nhân của ít nhất 9 người tại tỉnh Kie Ntem trong tuần qua. Các trường hợp này được cho là đã bị nhiễm bệnh từ những người dương tính cùng tham dự đám tang.
Đường lây nhiễm của virus Marburg
Bệnh do virus Marburg là một bệnh sốt xuất huyết hiếm gặp nhưng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến cả người và động vật linh trưởng. Marburg là loại virus RNA độc nhất về mặt di truyền (hoặc từ động vật), thuộc họ virus filovirus.
Loại virus này được ghi nhận lần đầu tiên vào năm 1967, khi dịch sốt xuất huyết bùng phát đồng thời tại các phòng thí nghiệm ở Marburg, Frankfurt (Đức) và Belgrade (Nam Tư, nay là Serbia).
31 người bị nhiễm bệnh, ban đầu là nhân viên phòng thí nghiệm, sau đó là một số nhân viên y tế và người thân đã chăm sóc họ. Có 7 trường hợp tử vong được báo cáo. Những người đầu tiên bị nhiễm bệnh đã tiếp xúc với khỉ xanh châu Phi nhập khẩu từ Uganda hoặc mô của chúng trong quá trình nghiên cứu.
Sau đó, các đợt bùng phát và các trường hợp nhiễm bệnh lẻ tẻ được báo cáo tại Angola, Công hòa Dân chủ Congo, Kenya, Nam Phi và Uganda.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) Mỹ, vật chủ ban đầu chứa virus Marburg là dơi ăn quả châu Phi, tên Rousettus aegyptiacus. Virus lây lan thông qua tiếp xúc giữa người với người, ví dụ như qua vết thương trên da hoặc niêm mạc ở mắt, mũi, miệng.
Ngoài ra virus có thể lây nhiễm qua máu hoặc chất dịch cơ thể (nước tiểu, nước bọt, mồ hôi, phân, chất nôn, sữa mẹ, nước ối và tinh dịch) của bệnh nhân hoặc người chết vì bệnh do virus Marburg.
Các đồ vật bị dính chất dịch cơ thể của người bệnh hoặc người qua đời vì bệnh do virus Marburg như quần áo, khăn trải giường, kim tiêm và thiết bị y tế cũng có nguy cơ lây nhiễm bệnh.
Những người có nguy cơ cao nhất gồm các thành viên trong gia đình bệnh nhân, nhân viên bệnh viện chăm sóc bệnh nhân nhiễm virus Marburg mà không sử dụng các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát lây nhiễm phù hợp.
Người làm bác sĩ thú y, nhân viên phòng thí nghiệm hoặc cơ sở kiểm dịch xử lý các loài kinh trưởng từ châu Phí cũng có nguy cơ phơi nhiễm với virus Marburg. Nguy cơ phơi nhiễm có thể cao hơn với những di khách đến thăm các vùng dịch lưu hàn tại châu Phi, người tiếp xúc với dơi ăn quả hoặc đi vào các hang động, hầm mỏ nơi loài dơi này sinh sống.
Triệu chứng khi nhiễm virus Marburg
Sau thời gian ủ bệnh tử 2-21 ngày, các triệu chứng khởi phát đột ngột, gồm sốt, ớn lạnh, nhức đầu và đau cơ. Khoảng ngày thứ 5 sau khi xuất hiện các triệu chứng, bệnh nhân có thể bị phát ban dát sẩn, nổi rõ nhất trên thân (ngực, lưng, bụng).
Buồn nôn, nôn, đau ngực, đau họng, đau bụng và tiêu chảy có thể xuất hiện. Các triệu chứng ngày càng nghiêm trọng hơn, có thể bao gồm vàng da, viêm tụy, sụt cân nghiêm trọng, mê sảng, sốc, suy gan, xuất huyết ồ ạt và rối loạn chức năng đa cơ quan.
Chẩn đoán lâm sàng bệnh do virus Marburg gây ra có thể khó khăn. Nhiều triệu chứng của bệnh tương tự với các bệnh truyền nhiễm khác như sốt rét, sốt thương hàn hoặc sốt xuất huyết. Tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân mắc bệnh do virus Marburg gây ra là từ 23-90%.
Hiện tại, không có vaccine hoặc phương pháp điều trị kháng virus nào được phê duyệt để điều trị bệnh do virus Marburg.
Tuy nhiên, việc chăm sóc hỗ trợ tại bệnh viện, bao gồm cân bằng chất lỏng và chất điện giải của người bệnh, duy trì tình trạng oxy và huyết áp, thay thế các yếu tố đông máu và xuất huyết, cũng như điều trị bất cứ bệnh nhiễm trùng nào khiến bệnh tình thêm phức, điều trị các triệu chứng cụ thể giúp cải thiện tỷ lệ sống sót.
Được biết, một loạt các phương pháp điều trị tiềm năng, gồm các sản phẩm máu, liệu pháp miễn dịch, liệu pháp điều trị bằng thuốc, các loại vaccine có dữ liệu thử nghiệm ban đầu đang được đánh giá.
Các biện pháp phòng ngừa
Các biện pháp phòng ngừa nhiễm virus Marburg chưa được xác định rõ ràng do sự lây truyền từ động vật hoang dã sang người vẫn đang được nghiên cứu, theo CDC. Tuy nhiên, tránh xa dơi ăn quả ( Rousettus aegyptiacus) và các loài linh trưởng là một cách để tránh bị lây nhiễm.
Biện pháp ngăn ngừa lây truyền thứ cấp (từ người sang người) giống với sốt xuất huyết. Người được xác nhận mắc bệnh do virus Marburg hoặc nghi nhiễm nên được cách ly với cộng đồng.
Trong khi đó, người điều trị hoặc chăm sóc bệnh nhân cần sử dụng các biện pháp kiểm soát và phòng ngừa lây nhiễm để tránh tiếp xúc trực tiếp, gồm mặc áo choàng bảo hộ, đeo găng tay, khẩu trang, khử trùng và xử lý đúng cách kim tiêm, thiết bị cũng như chất bài tiết của bệnh nhân.
Đinh Kim(Theo Telegraph, CDC)