Từ tàu ngầm Đức đến tàu sân bay Mỹ, đây là một số lớp tàu đáng gờm nhất trong lịch sử nửa đầu thế kỷ 20.
Trang National Interest đưa ra danh sách 5 lớp tàu chiến nguy hiểm nhất để di chuyển trên biển. Danh sách tập trung vào nửa đầu thế kỷ 20, thời kỳ chứng kiến hai cuộc hải chiến hủy diệt nhất trong lịch sử, bao gồm 5 loại tàu chính: tàu sân bay, thiết giáp hạm, tàu tuần dương, tàu khu trục và tàu ngầm.
Tàu sân bay lớp Essex, Mỹ
Từ kinh nghiệm với các tàu sân bay lớp Lexington và Yorktown, Hải quân Mỹ (USN) kết luận rằng họ cần một lớp tàu sân bay lớn và nhanh hơn để thống trị Thái Bình Dương và trấn giữ Đại Tây Dương. Kết quả là, một bước nhảy vọt về mặt tiến hóa từ Yorktown, là lớp Essex. Với lượng giãn nước 28.000 tấn, mỗi chiếc Essex có thể thoải mái mang theo một nhóm tấn công mạnh mẽ gồm 90 máy bay.
Ảnh minh họa. Nguồn: National Interest. |
USS Essex đi vào hoạt động vào tháng 12/1942, với 6 chiếc khác gia nhập hạm đội vào năm 1943. Lớp tàu này đã trở thành nòng cốt của cuộc tấn công giành thắng lợi trong chiến tranh vào Thái Bình Dương do Nhật Bản kiểm soát từ năm 1943 đến năm 1945. Các tàu đóng vai trò quan trọng trong chiến thắng tại biển Philippine và vịnh Leyte, những chiến công đã tiêu diệt sức chiến đấu của Hải quân Đế quốc Nhật Bản.
Mỹ cuối cùng đã đóng 24 tàu lớp Essex, với một số sửa đổi đáng kể trên đường đi, 8 tàu khác đã bị hủy bỏ. Sau chiến tranh, phần lớn lớp Essex vẫn hoạt động ở tuyến đầu, với nhiều tàu được sửa đổi rộng rãi thành nhiều cấu hình khác nhau. Một số trở thành tàu sân bay tấn công, những tàu sân bay chống tàu ngầm khác, trong khi những chiếc khác vẫn được cấu hình cho vai trò tấn công.
Chiến hạm lớp Queen Elizabeth, Vương quốc Anh
Đây là một bước nhảy vọt mang tính cách mạng trong một thời kỳ phát triển và đổi mới to lớn trong việc đóng tàu chiến. Lớn hơn 4000 tấn so với những chiếc tiền nhiệm, 5 thiết giáp hạm lớp Queen Elizabeth (QE) mang 8 khẩu pháo 15. Chúng có thể thực hiện nhanh hơn 2-3 hải lý so với hầu hết các tàu cùng thời ở nước ngoài và duy trì tốc độ đó nhờ vào các nồi hơi đốt dầu ở trên tàu.
Kiến trúc chiến hạm là một nghệ thuật không khoan nhượng, những thiết kế tiên tiến đã trở nên lỗi thời trong vòng chưa đầy một thập kỷ. Các QE đã chịu đựng thử thách của thời gian, góp phần quyết định vào sức mạnh hải quân Anh trong cả hai cuộc Thế chiến. Ba trong số năm chiếc QE từng phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai đã trở thành các đơn vị hiện đại hơn sau một đợt cải tạo lớn.
Ảnh minh họa. Nguồn: Naval History. |
Do đó, QE đã tham gia vào gần như mọi hoạt động hải quân quan trọng của Anh trong vòng 30 năm. Lớp QE từng dẫn đầu cuộc tấn công của người Anh vào Dardanelles. Bốn trong số các tàu tạo thành Hải đội Chiến đấu số 5 tại Jutland, gây thiệt hại nặng nề cho các tàu tuần dương Đức trong khi bị các thiết giáp hạm của Hạm đội Biển khơi tấn công mạnh. Trong Thế chiến thứ hai, chúng phục vụ ở Đại Tây Dương trong chiến dịch Na Uy, ở Địa Trung Hải, Normandy và cuối cùng là ở Thái Bình Dương. Chỉ có một con tàu, HMS Barham, bị mất tích trước hành động của đối phương (thuyền chữ U), mặc dù một số chiếc còn lại đã bị thiệt hại nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân trong suốt hai cuộc chiến.
Tàu ngầm lớp U-31, Đế quốc Đức
Trước Thế chiến thứ nhất, vai trò và giá trị của tàu ngầm là không chắc chắn. Hải quân Hoàng gia Anh (RN), cùng với nhiều đối tác của mình, tập trung vào mối đe dọa mà tàu ngầm có thể gây ra cho hạm đội. Mặc dù có một vài tổn thất nghiêm trọng, RN đã làm rất tốt trong việc bảo vệ các đơn vị chủ lực của mình khỏi sự tấn công của tàu ngầm.
Đức đã tham gia vào các cuộc tấn công rộng rãi, tàn khốc nhằm vào các tàu buôn của đồng minh trong năm đầu tiên của cuộc chiến, sau đó phải lùi bước vì sự phản đối của người Mỹ. Năm 1917, như một phần của chiến lược đột phá nhằm đẩy Vương quốc Anh khỏi cuộc chiến, Đức tuyên bố nối lại chiến tranh tàu ngầm không hạn chế. Lớp U-31 được định vị tốt để gây ra tác động tàn phá.
Ảnh minh họa. Nguồn: Naval Encyclopedia. |
Mặc dù nhỏ và không phức tạp theo tiêu chuẩn của Thế chiến thứ hai, nhưng 11 chiếc tàu lớp U-31 tự hào có 4 trong 5 chiếc tàu ngầm sát thủ hàng đầu trong lịch sử. Được chế tạo từ năm 1912 đến năm 1915, U-31 là những chiếc thuyền đi biển cỡ trung bình, trọng tải khoảng 800 tấn. Các thuyền U-31 đại diện cho một sự cải tiến mang tính tiến hóa so với những nỗ lực trước đó của Đức. Chúng có tầm bắn tốt, súng boong để tiêu diệt tàu vận tải nhỏ và tốc độ trên mặt nước khá.
Do đó, các máy bay U-31 đã sẵn sàng tận dụng lợi thế của cả hai thời kỳ hoạt động không hạn chế. Chúng đã giết được hầu hết trong hoặc gần các vùng biển ven biển của Anh, trước khi Hải quân Hoàng gia thiết lập hệ thống vận tải của họ. "Sát thủ hàng đầu" đã đánh chìm 224 con tàu có trọng tải hơn nửa triệu tấn.
Việc mở đầu thời kỳ chiến tranh không hạn chế thứ hai đã mở ra cánh cửa cho Mỹỳ tham chiến. Ngay sau đó, Hải quân Hoàng gia và ngành vận tải biển của thương gia Anh đã đồng ý trong việc phát triển hệ thống tàu vận tải, nhờ đó đã giảm đáng kể tổn thất. Vương quốc Anh sống sót, và đồng minh nắm được kiến thức về cách chiến đấu với U-boat trong cuộc chiến tiếp theo. 3 trong số 11 thuyền U-31 sống sót sau chiến tranh, bao gồm cả U-35.
Khu trục hạm lớp Kagero, Đế quốc Nhật Bản
Trong số tất cả các tàu chiến có sức tàn phá khủng khiếp mà Hải quân Đế quốc Nhật Bản (IJN) đưa đến Thái Bình Dương vào năm 1941, tàu Kageros và tàu khu trục của họ là những cái tên gây ấn tượng nhất.
Tập trung vào việc phát triển lợi thế về chất lượng đối hạm, Nhật Bản đã cố gắng phát triển các tàu khu trục không chỉ có thể đánh chìm các đối tác của họ mà còn có thể tiêu diệt các tàu tuần dương và thiết giáp hạm. Điều này đã khiến IJN phát triển một loạt tàu khu trục mạnh mẽ, mà đỉnh cao là lớp Kagero trước chiến tranh.
Ảnh minh họa. Nguồn: Wikipedia. |
Được trang bị 6 khẩu pháo 5 trong ba tháp pháo đôi, 18 chiếc Kageros có thể đánh bại tất cả, trừ những tàu khu trục lớn nhất của Pháp trong thời đại và những siêu khu trục hạm của Pháp.
Tuy nhiên, mối đe dọa thực sự của tàu Kageros là ngư lôi 24” Long Lance, một loại vũ khí cùng loại với hầu hết các tàu khu trục và tàu tuần dương khác của Nhật Bản. Những quả ngư lôi chạy bằng nhiên liệu oxy này có thể bay xa hơn 40000 thước Anh và gây ra thiệt hại nặng nề khi chúng tấn công mục tiêu. Kageros được xây dựng kiên cố và mang vũ khí phòng không và chống tàu ngầm tốt.
Tàu tuần dương hạng Town, Vương quốc Anh
Hải quân Hoàng gia Anh đã sản xuất 9 tàu lớp Town, được chia thành ba lớp phụ. Với lượng giãn nước khoảng 12000 tấn, các tàu Town mang theo 12 khẩu pháo 6”, cũng như các loại vũ khí phòng không và ngư lôi tốt.
Ảnh minh họa. Nguồn: Wikipedia. |
Tàu tuần dương hạng Town đã phục vụ trong hầu hết các cuộc giao tranh có ý nghĩa của Thế chiến thứ hai. Các tàu Town săn lùng những tên cướp Đức và những kẻ chạy trốn ở Nam Đại Tây Dương, chúng hộ tống các đoàn xe đến Malta dưới sự bắn phá khắc nghiệt của Đức và Ý; giúp che đậy cuộc chạy trốn của người Anh khỏi đảo Crete; tấn công vào bến thuyền Regia khi nó cố gắng bảo vệ các đoàn xe chở quân của Libya; chiến đấu với tàu và máy bay của Đức ngoài khơi Na Uy... Sau đó, 3 chiếc tàu bị lạc ở Địa Trung Hải và một chiếc ở Bắc Cực.
Bích Thảo(Theo National Interest)