Luật Cư trú 2020 sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2021.
Những quy định quan trọng nhất liên quan đến sổ hộ khẩu được đề cập tại khoản 3 Điều 38 của Luật này. Trong đó có nêu: “Khi công dân thực hiện các thủ tục đăng ký cư trú dẫn đến thay đổi thông tin trong Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú thì cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm thu hồi sổ hộ khẩu, sổ tạm trú đã cấp, thực hiện điều chỉnh, cập nhật thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú theo quy định của Luật này và không cấp mới, cấp lại Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú”.
Điều này có nghĩa là, từ ngày 1/7/2021, sẽ thu hồi Sổ hộ khẩu, nếu đi làm các thủ tục dẫn đến thay đổi thông tin của sổ. Đồng thời sẽ không cấp mới Sổ hộ khẩu trong trường hợp đi đăng ký thường trú hoặc tách hộ, cũng như không cấp lại Sổ hộ khẩu trong trường hợp bị mất sổ, sổ bị hư hỏng, rách nát…
Khi đó, những thông tin của người dân sau khi hoàn thành thủ tục liên quan đến đăng ký thường trú sẽ được cập nhật tại Cơ sở dữ liệu về cư trú, thay vì cầm trên tay một cuốn Sổ hộ khẩu.
Lưu ý, những Sổ hộ khẩu nếu không thuộc trường hợp bị thu hồi, vẫn còn giá trị sử dụng bình thường như một loại giấy tờ, tài liệu để xác nhận về cư trú như hiện nay.
Như vậy, từ 1/7/2021, hoàn toàn không phải là thời điểm bỏ Sổ hộ khẩu, mà chỉ là thời điểm không còn cấp mới cuốn sổ này, cũng như thu hồi cuốn sổ này trong trường hợp làm các thủ tục về cư dẫn dẫn đến có thay đổi thông tin trong sổ.
Cũng tại khoản 3 Điều 38 của Luật Cư trú: Kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú đã được cấp vẫn được sử dụng và có giá trị như giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú theo quy định của Luật này cho đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2022.
Quy định trên cho thấy, Sổ hộ khẩu vẫn tiếp tục được sử dụng đến hết ngày 31/12/2022.
Chính thức từ ngày 1/1/2023, Sổ hộ khẩu mới chính thức được xóa bỏ, những cuốn sổ đã được cấp không còn có giá trị sử dụng. Mọi giao dịch, thủ tục hành chính cũng không còn cần đến sổ hộ khẩu nữa.
Từ 1/7/2021, công dân bị xóa hộ khẩu trong 9 trường hợp Xóa đăng ký thường trú (hay còn gọi là xóa hộ khẩu) theo quy định tại Điều 24 Luật Cư trú 2020 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2021) sẽ áp dụng đối với 9 trường hợp: (1) Chết; có quyết định của Tòa án tuyên bố mất tích hoặc đã chết; (2) Ra nước ngoài để định cư; (3) Đã có quyết định hủy bỏ đăng ký thường trú quy định tại Điều 35 của Luật này; (4) Vắng mặt liên tục tại nơi thường trú từ 12 tháng trở lên mà không đăng ký tạm trú tại chỗ ở khác hoặc không khai báo tạm vắng, trừ trường hợp xuất cảnh ra nước ngoài nhưng không phải để định cư hoặc trường hợp đang chấp hành án phạt tù, chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng; (5) Đã được cơ quan có thẩm quyền cho thôi quốc tịch Việt Nam, tước quốc tịch Việt Nam, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam; (6) Người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở do thuê, mượn, ở nhờ nhưng đã chấm dứt việc thuê, mượn, ở nhờ mà sau 12 tháng kể từ ngày chấm dứt việc thuê, mượn, ở nhờ vẫn chưa đăng ký thường trú tại chỗ ở mới, trừ trường hợp quy định tại điểm h khoản này; (7) Người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp nhưng sau đó quyền sở hữu chỗ ở đó đã chuyển cho người khác mà sau 12 tháng kể từ ngày chuyển quyền sở hữu vẫn chưa đăng ký thường trú tại chỗ ở mới, trừ trường hợp được chủ sở hữu mới đồng ý tiếp tục cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ và cho đăng ký thường trú tại chỗ ở đó hoặc trường hợp quy định tại điểm h khoản này; (8) Người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở do thuê, mượn, ở nhờ nhưng đã chấm dứt việc thuê, mượn, ở nhờ và không được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý cho giữ đăng ký thường trú tại chỗ ở đó; người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở thuộc quyền sở hữu của mình nhưng đã chuyển quyền sở hữu chỗ ở cho người khác và không được chủ sở hữu mới đồng ý cho giữ đăng ký thường trú tại chỗ ở đó; (9) Người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở đã bị phá dỡ, tịch thu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tại phương tiện đã bị xóa đăng ký phương tiện theo quy định của pháp luật. |
Cự Giải (T/h)