Châu Minh Nhân kẻ sát hại vợ, con Trưởng ban Dân vận huyện ủy Châu Đức bị Viện KSND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu truy tố 2 hai tội giết người và cướp tài sản.
Theo thông tin trên báo Lao động, Công an nhân dân, Dân Trí, ngày 28/2, Viện KSND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho biết, cơ quan này đã hoàn tất cáo trạng và chuyển hồ sơ qua tòa án tỉnh truy tố Châu Minh Nhân (21 tuổi, quê Vĩnh Long, ngụ TPHCM) về tội giết người, cướp tài sản.
Nhân bị cáo buộc sát hại bà Phạm Thúy N. (SN 1968) và Bùi Phạm Đức T. (SN 1999). Hai nạn nhân là vợ và con ông Bùi Xuân Thường (Trưởng ban Dân vận huyện ủy huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).
Liên quan đến vụ việc, báo Bà Rịa-Vũng Tàu Online trích dẫn cáo trạng thể hiện, năm 2014, Nhân tham gia thi công sân bóng đá nhân tạo cho gia đình ông Thường. Do đang nợ 20 triệu đồng nên Nhân có ý định trộm nhà ông Thường lấy tiền trả nợ.
Châu Minh Nhân - kẻ sát hại vợ, con Trưởng ban Dân vận chuyện tại cơ quan điều tra - Ảnh: Người đưa tin |
Ngày 20/10/2016, Nhân đi từ TP HCM xuống Châu Đức, ghé vào nhà ông Thường nhưng không gặp ai nên thuê phòng nghỉ lại. Khoảng 11h trưa 24/10, Nhân thuê xe ôm đến nhà ông Thường. Khi đến nhà, Nhân theo lối cổng phụ mở sẵn vào trong nhà nhưng không có ai. Sau đó, Nhân đi ra phía sau bếp, nhặt được một ống tuýp sắt với mục đích nếu bị phát hiện sẽ dùng để đánh trả. Nhân đi vào bếp, rồi lên phòng ngủ sát kho và phòng khách lục tìm kiếm tài sản nhưng không thấy.
Sau đó, thấy Toàn đi ngang qua cửa phòng nơi Nhân đang đứng để xuống nhà bếp, sợ bị phát hiện, Nhân liền đi theo rồi dùng ống tuýp đập vào cổ, đầu khiến nạn nhân ngã xuống. Chưa dừng lại, Nhân tiếp tục lấy ống tuýp đánh anh Toàn và dùng hai sợi dây điện buộc hai tay, hai chân của anh Toàn lại.
Tiếp đó, thấy bà N. (vợ ông Thường) đang đi lên lầu, Nhâm cầm tuýp đứng chờ và ra tay đập khiến bà N. ngất xỉu. Sau đó Nhân kéo bà N. đặt lên nằm trên giường rồi lấy chiếc điện thoại của bà N. bỏ vào túi và dùng chìa khóa mở két sắt.
Công an phong tỏa hiện trường ngày 25/10 - Ảnh: Ngọc An/ Tri thức trực tuyến |
Lát sau, thấy bà N. vẫn còn sống nên Nhân lấy ruột gối, dây sạc pin điện thoại sát hại bà N. Nhân tháo nhẫn bà N. đang đeo, lấy đôi bông tai vàng và lục túi lấy tiền. Sau đó, Nhân lấy chăn đắp, bật quạt như bà N. đang ngủ.
Sau khi sát hại mẹ con bà N., do sợ bị camera ghi hình, Nhân lấy một chiếc áo thun ở nhà ông Thường buộc che mặt, đi ra phòng khách tắt cầu dao tổng ngắt điện. Hắn vòng ra sau nhà, lấy trộm thêm tổ yến rồi lấy xe máy của ông Thường bỏ đi.
Trên đường đi, Nhân vứt tuýp sắt, tháo sim và thẻ nhớ điện thoại của bà N. xuống ven đường, tháo biển số xe… và bán đôi bông tai của bà N. được gần 2,7 triệu đồng. Sau đó, Nhân chạy đến bến xe Miền Đông, TP. Hồ Chí Minh gửi xe máy vào điểm giữ xe rồi đi xe khách ra thị trấn Phù Mỹ, tỉnh Bình Định tìm người đòi tiền.
Trưa 25/10, Nhân bắt xe về lại TP.Hồ Chí Minh. Sáng 26/10, Nhân bị bắt giữ tại quận Gò Vấp, TP. HCM.
Điều 93. Tội giết người (Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009) 1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Giết nhiều người; b) Giết phụ nữ mà biết là có thai; c) Giết trẻ em; d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ; k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; m) Thuê giết người hoặc giết người thuê; n) Có tính chất côn đồ; o) Có tổ chức; p) Tái phạm nguy hiểm; q) Vì động cơ đê hèn. 2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm. Điều 133. Tội cướp tài sản 1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác; đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người; b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm. Chú ý: Thông tin pháp lý trong hộp nội dung này được trích từ nguồn trên mạng Internet, nên chỉ mang tính tham khảo |
Tổng hợp