Trận đánh mở ra “thái bình thịnh thế”
Cách đây 598 năm, trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh thế kỷ XV, Chi Lăng là chiến trường ghi dấu chiến công vang dội, phá tan cánh quân cứu viện thành Đông Quan do Liễu Thăng cầm đầu. Bằng sự vận dụng linh hoạt, lợi dụng địa thế hiểm yếu của núi rừng Chi Lăng, cùng binh pháp tài tình của Lê Lợi - Nguyễn Trãi và lòng dũng cảm kiên cường, đồng lòng đánh giặc của nhân dân các dân tộc Chi Lăng, quân ta đã tiêu diệt tướng giặc Liễu Thăng dưới chân núi Mã Yên cùng hàng vạn tên giặc vào ngày 10/10/1427.
Lật lại sử liệu, sau khi bắt vua tôi nhà Hồ, giặc Minh áp đặt ách cai trị lên đất nước ta khiến lòng dân oán hận ngút trời. Năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn và tự xưng là Bình Định Vương, trực tiếp đánh vào lực lượng quân Minh ở Thanh Hóa. Nghe tin Lê Lợi đang chuẩn bị khởi nghĩa ở Lam Sơn, nhiều người yêu nước từ các địa phương đã tìm về hội tụ ngày càng đông cùng mưu đồ sự nghiệp cứu nước.
Cuộc kháng chiến kéo dài và lực lượng của quân dân nước Việt ngày càng lớn mạnh đã chiến thắng giặc Minh trên nhiều mặt trận quan trọng, tiến tới vây hãm Vương Thông ở thành Đông Quan buộc tướng giặc phải xin hàng.
Đến đầu năm 1427, các thành Thuận Hóa, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu lần lượt đầu hàng. Chỉ còn thành Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh quân địch dù ngoan cố giữ thành, nhưng lực lượng ngày càng suy yếu, kết quệ và khi viện binh sang, không dám hành động gì.
Những thành khác nằm trên trục đường tiếp viện của quân Minh đến Đông Quan. Đó là thành Tam Giang (Phú Thọ) trên trục đường Vân Nam – Đông Quan; thành Khâu Ôn (Lạng Sơn), Xương Giang, Thị Cầu (Bắc Ninh), Điêu Diêu (Long Biên, Hà Nội) trên trục đường Quảng Tây - Đông Quan. Những thành này đóng vai trò như những nhịp cầu đón tiếp và dẫn dắt quân địch tiến vào Đông Quan. Vì vậy, để triệt để cô lập Đông Quan và chuẩn bị chiến trường diệt viện, nghĩa quân chủ trương vừa vây hãm, vừa dụ hàng, nhưng nhất thiết phải xóa sạch trước khi viện binh sang. Trường hợp những thành ngoan cố không chịu đầu hàng thì kiên quyết tiến công đập tan sự chống cự đó và hạ thành bằng sức mạnh quân sự.
Tháng 02/1427, thành Điêu Diêu đầu hàng, tháng 3 thành Thị Cầu đầu hàng, tháng 4 thành Tam Giang đầu hàng. Chỉ có hai thành Khâu Ôn (Lạng Sơn) và Xương Giang (nay là Bắc Ninh) nhất định không chịu ra hàng, quân địch liều chết cố thủ chờ viện binh.
Khâu Ôn (Lạng Sơn) là một thành gần biên giới Quảng Tây có vị trí quan trọng trong việc trung chuyển tiếp quân lương của quân Minh từ phía Quảng Tây (Trung Quốc) sang. Theo quy định của nhà Minh, thành Khâu Ôn cũng như Pha Lũy (Ải Nam Quan), Ải Lưu (Nhân Lý), về mặt hành chính thì thuộc Giao Chỉ, nhưng về mặt quân sự thì giao cho đô ty Quảng Tây phụ trách. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư”cũng cho biết trong thời gian đánh thành Khâu Ôn, Tướng Trần Lựu đã được Lê Lợi phong chức Nhập nội Thiếu bảo, tổng tri coi việc quân dân Lạng Sơn và An Bang, cho quyền tiền trảm hậu tấu, toàn quyền huy động quân dân ngăn chống quân Minh ở vùng biên giới Đông Bắc. Tướng Trần Lựu và Lê Bôi chỉ huy vây hãm từ cuối năm 1426. Tháng 02 năm 1427, quân ta mở cuộc tiến công hạ thành. Quân địch một số tháo chạy về Quảng Tây, một số bị tiêu diệt tại chỗ.

Hang Thái Đức nơi vua Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt cùng các bô lão bàn kế đánh giặc. NSNA Bùi Thuận
Xương Giang là một thành lũy vào loại kiên cố của quân Minh, lại ở vào vị trí trọng yếu trên con đường Quảng Tây – Đông Quan, có vai trò sống còn cho quân tiếp viện. Theo di tích còn lại đến nay, thành hình vuông, rộng trên 25 ha, phía ngoài có hào, di tích bốn tường thành còn lại có chỗ mặt thành rộng đến 20m, đoạn hào phía Bắc rộng đến 10m. Biết rõ ý đồ của địch, ngay từ cuối năm 1426, Bộ chỉ huy tối cao Lam Sơn đã cử Lê Sát và Thôi Tụ chỉ huy nghĩa quân phối hợp với nhân dân vùng Lạng Giang, Khoái Châu bao vây, tiến công thành Xương Giang để biến nơi này thành bức tường thành vững chắc chặn đứng con đường tiếp viện của giặc.
Để tiêu diệt cho kỳ được thành Xương Giang, Lê Lợi điều động danh tướng Trần Nguyên Hãn lên tăng viện. Cuộc chiến đấu xảy ra cam go, ác liệt vì quân địch quyết tâm cố thủ và quân ta quyết tâm đánh hạ thành Xương Giang 10 ngày trước khi viện binh quân Minh kéo đến biên giới. Sau khi chiếm được lập tức tu sửa thành một căn cứ quân sự kiên cố của nghĩa quân trên con đường chặn viện binh của địch từ Pha Lũy đến Đông Quan.
Năm Đinh Mùi (1427), ngày 10 tháng 6, nhà Minh hạ lệnh cho tướng Trấn Viễn Hầu đem 5 vạn quân và 1 nghìn ngựa từ Quảng Tây sang cứu viện các thành gần biên giới. Đến cửa Pha Lũy, Trần Lựu cùng Lê Bôi phá tan quân giặc, chém hơn ba nghìn đầu, bắt năm trăm ngựa, rồi rút về. Nhằm cứu vãn tình thế, vào ngày 10 tháng 6 năm 1427, nhà Minh tiếp tục hạ lệnh cho Tổng binh Quảng Tây là Cố Hưng Tổ đem theo 5 vạn quân cùng 5 ngàn cỗ ngựa sang cứu viện thành Khâu Ôn (Lạng Sơn). Đến cửa ải Pha Lũy (tức cửa Nam Quan hay còn gọi là Hữu Nghị Quan), đã bị tướng Trần Lựu, Lê Bôi đón ngay tại cửa ải, phá tan quân giặc, chém trên 3000 thủ cấp, bắt được hơn 500 ngựa, Hưng Tổ thua to phải chạy về nước .
Đạo viện binh của Mộc Thạch có 5 vạn quân và 1 vạn ngựa. Đạo quân Liễu Thăng mạnh và đông đến 10 vạn quân, 2 vạn ngựa, giữ vai trò tiến công chủ yếu. Trong bộ chỉ huy của Liễu Thăng có Bảo Định bá Lương Minh làm Tả phó tổng binh, Đô đốc Thôi Tụ làm Hữu tham tướng, vua Minh còn đặc biệt cử hai Thượng thư đi theo tư vấn cho Liễu Thăng. Đó là Thượng thư Bộ binh Lý Khánh giữ chức Tham tán quân vụ, người mà vua Minh khen ngợi là “lão thành và lịch luyện” và Thượng thư Bộ Công Hoàng Phúc, một quan chức đô hộ dày dặn kinh nghiệm trong nhiều năm cai trị Giao Chỉ. Hơn nữa, đoạn đường Pha Lũy - Đông Quan lại ngắn, quân địch có thể tiến nhanh vào Đông Quan. Đạo viện binh do Liễu Thăng chỉ huy là đối tượng tác chiến chủ yếu và trước tiên của quân ta! Đòi hỏi quân ta phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, những thắng lợi giành được sẽ là đòn quyết định đập tan kế hoạch cứu viện của nhà Minh, gây chấn động mạnh đối với đạo quân Mộc Thạch ở hướng kiềm chế, đối với Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan và triều đình nhà Minh ở Bắc Kinh.

Lược đồ trận Chi Lăng - Xương Giang, tháng 10/1427
Chiến dịch Chi Lăng-Xương Giang diễn biến theo ba giai đoạn. Trận Chi Lăng nằm ở giai đoạn thứ nhất. Giai đoạn thứ hai là trận Cần Trạm, trận Phố Cát. Giai đoạn thứu 3 là thành Xương Giang.
Ở giai đoạn thứ nhất, chiến sự diễn ra từ ngày 8-10-1427 đến 10-10-1427, dọc theo tuyến đường Cái Quan có độ dài khoảng 60km, từ cửa ải Pha Lũy (sau gọi là Nam Quan, bây giờ là Hữu Nghị Quan) về đến bầu Chi Lăng (tức thung lũng Chi Lăng, nay thuộc xã Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn).
Khi Tổng binh Liễu Thăng dẫn đầu đạo quân cứu viện 10 vạn người của triều Minh bắt đầu vượt biên, vào cõi (ngày 8-10-1427) thì tướng Trần Lựu được giao nhiệm vụ trấn giữ ải Pha Lũy (ải Nam Quan), phải mở ngay cửa thành ra nghênh chiến, chặn đánh quyết liệt rồi nhanh chóng rút về Khâu Ôn (Lạng Sơn). Liễu Thăng đuổi theo chiếm lấy Khâu Ôn. Tại đây, Liễu Thăng nhận được bức thư của Nguyễn Trãi. Trong thư, Nguyễn Trãi nhân danh Trần Cảo, dùng lời lẽ mềm mỏng khuyên Liễu Thăng đóng đại quân ở biên giới để có thể “ngồi yên đó mà hưởng thành công”. Liễu Thăng càng kiêu ngạo, không thèm đọc, gửi thẳng về triều đình, rồi lập tức tiến quân.
Trên đoạn đường dài từ Khâu Ôn đến ải Lưu (xã Nhân Lý bây giờ), Liễu Thăng chỉ thấy đội quân Trần Lựu vừa đánh vừa chạy hoặc“chưa đánh đã thua”, phải lui về giữ ải Lưu. Ải Lưu vốn là một vị trí quân sự quan trọng, hiểm yếu của Lạng Sơn. Trước đó, vào những ngày đầu mới xâm lược, quân Minh đã lập doanh trại, đặt thiên hộ sở ở đây. Quân địch tiến đến đánh sát ải Lưu dễ dàng như chỗ không người và “lại thắng”, Trần Lựu lại rút về ải Chi Lăng. Tại Ải Lưu, Liễu Thăng tức tối, muốn “thừa thắng” thúc quân đuổi theo quân ta chiếm luôn ải Chi Lăng nhưng Thượng thư Lý Khánh đang ốm cũng gượng dậy can gián Liễu Thăng không nên khinh địch.
Đoán trước ý đồ cẩn trọng của địch, Nguyễn Trãi gửi bức thư thứ hai tới Liễu Thăng, khác với bức thư trước, bức thư này, lời lẽ ung dung, cứng dắn, có phần khiêu khích, đe dọa, Nguyễn Trãi khuyên Liễu Thăng nên lui quân, nếu không “đến lúc ấy thì lòng thành của nước tôi thờ nước lớn thực có phần thiếu, mà các ông hối lại sẽ không kịp nữa”. Đọc thư, tính kiêu căng, ngạo mạn của Liễu Thăng càng bị kích động và càng thúc đẩy hắn gạt bỏ mọi lời khuyên can, tiến quân một cách hung hăng, liều lĩnh, dấn thân vào cạm bẫy ở Chi Lăng (chỗ bây giờ vẫn đang có Núi Hàm Quỷ và Núi Quỷ trấn giữ cửa ải). Đến thung lũng Chi Lăng, Trần Lựu bỗng nhiên quay lại đánh tiếp một trận kịch liệt, rồi biến mất vào lòng ải (tức thung lũng Chi Lăng), thì Liễu Thăng tức giận hơn bao giờ hết, hung hăng đích thân dẫn cánh quân tiên phong gồm hơn 1 vạn lính tinh nhuệ, cùng 100 quân kỵ mã thân tín đi hộ vệ, bỏ lại đại quân ở phía sau (cụm mai phục thứ nhất, cụm thứ hai của quân ta), xông thẳng vào lòng ải Chi Lăng (cụm mai phục thứ ba, thứ tư). Thế là sập bẫy! Trong ải Chi Lăng, có ngọn núi Mã Yên, Hàm Quỷ, Nà Nông, Ma Sẳn, Kỳ Lân. Đây là 5 ngọn núi đá vôi, cao khoảng 40m so với mặt đất, chu vi khoảng 300m, nằm phía Nam cánh đồng Chi Lăng. Dưới chân núi là một cánh đồng lầy lội mà nhân dân quen gọi là Nà Pung, Nà Lúm (tiếng Tày có nghĩa là đồng lầy, đồng thụt), có cầu bắc qua theo đường cái. Quân ta dựa vào thế núi và dựa vào rào lũy để nghi binh đánh lừa Liễu Thăng. Liễu Thăng và hơn 100 kỵ binh vừa qua cầu tiến về chân núi Mã Yên thì cầu sập. Đội quân tiên phong tiến theo chủ tướng, chưa kịp qua cầu, đội hình đã bị chia cắt.
Từ mé sau 5 ngọn núi giữa lòng ải và khắp chỗ ém quân mai phục trong thung lũng, thành lũy từ Núi Quỷ cho đến Lũy Ngõ Thề, hơn 1 vạn nghĩa quân Lam Sơn cùng 5 thớt voi trận và 100 chiến mã chi làm hai cụm số ba và số bốn, dưới sự chỉ huy của các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Đinh Liệt… xông cả ra, đánh phá dữ dội, chia cắt, bao vây. Những con voi chiến hùng hổ xông thẳng vào đội hình kỵ binh của địch, chia cắt và dồn chúng vào cánh đồng lầy, mất sức chiến đấu. Tên tẩm thuốc độc, đạn đá, phi tiêu, mũi lao tới tấp phóng vào quân giặc. Bị đánh bất ngờ, mau lẹ, quân địch hoảng hốt, đội hình bị rối loạn. Tổng binh Liễu Thăng cố tìm cách chạy thoát, liền bị quân ta phóng lao, chết tại trận. Tin chủ soái bị giết làm cho quân địch hoảng hốt bỏ chạy toán loạn.
Đồng thời, cụm thứ nhất gồm quân binh triều đình, quân địa phương và dân binh mai phục kéo dài từ Nhân Lý, Mai Sao, Làng Đăng, Làng Cóc (xã Quang Lang cũ, nay là xã Chi Lăng) thực hiện nhiệm vụ làm sập cầu và dùng cung tên tẩm thuốc độc, máy bắn đá, bộ binh và kỵ binh chốt khóa đuôi quân giặc.
Cụm thứ hai gồm quân binh triều đình, quân địa phương và dân binh phục kích ở hai bên núi đá là Vạn Linh, Lũng Ngàn, Đèo Rộ và núi đất là Đèo Mấn, Quang Lang, Làng Lìu, Đông Mồ, làng Chung, Than Muội, kéo dài đến vị trí cửa ải núi Hàm Quỷ, Nà Nông, Bãi Hào, Ma Sẳn bắn tên độc và đá như mưa trút xuống, dưới mặt đất là các hầm chông hố thụt làm địch xa lầy, phối hợp có đội quân kỵ binh, bộ binh, thủy binh của ta tả xung hữu đột khóa chặt hai bên hông quân địch.
Đòn đánh “phục binh giữ hiểm, đập gãy tiên phong” như lời Nguyễn Trãi nói ở “Bình Ngô đại cáo” - trong thung lũng Chi Lăng ngày 10-10-1427, theo chiến thuật “đập nát đầu rắn”, được các tướng chỉ huy và nghĩa quân Lam Sơn thực hiện xuất sắc, tướng Trần Lựu khéo “trá bại dụ địch”, đã có hiệu quả và tác động vô cùng to lớn. Đặc biệt đội “tuần binh, tuần tráng” của Hoàng Đại Huề, Hoàng Đại Liệu ở Quang Lang (nay là xã Chi Lăng) đã đánh giặc rất dũng cảm, lập nhiều chiến công. Trong trận này, Đại Đề, Đại Liệu, vợ và các con đều hy sinh anh dũng.
Chiến thắng Chi Lăng là một chiến thắng vô cùng oanh liệt, mở màn có ý nghĩa quyết định, tạo khí thế cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta ở những trận Cần Trạm, Phố Cát, thành Xương Giang đều nhằm trúng đầu não và hậu cần của địch, đạt hiệu quả cao và gây tác động rất lớn. Buộc 5 vạn quân của Mộc Thạch ở Ải Lê Hoa phải bỏ chạy về nước và buộc Vương Thông phải dự hội thề Đông Quan – thực tế là thực chất là đầu hàng để được bảo toàn tính mạng rút quân về nước.
Trước khi diễn ra trận đánh Chi Lăng - Xương Giang, trên Núi Vua Ngự (xã Chi Lăng), Lê Lợi và quan quân, các bô lão, dân binh kính cẩn lập đàn lễ Kính Thiên. Đây là một phong tục quan trọng trong văn hóa Việt Nam, thường được thực hiện trên đài hoặc núi cao, nhằm thể hiện lòng tôn kính trời đất, thể hiện sự gắn kết giữa con người và thiên nhiên, nơi “thiên - địa - nhân” có thể giao hòa với nhau; người được chọn trao ấn kiếm trước trận đánh phải có chân mệnh thiên tử “thuận thiên hành đạo”, thần linh chứng giám, phù hộ cho chiến thắng, sự an toàn của quân sĩ trước khi ra trận và mang ý nghĩa đoàn kết toàn dân. Sau đó, trở về tổng hành dinh Bồ Đề, Lê Lợi, Nguyễn Trại và Bộ chỉ huy vừa tiếp tục chỉ đạo vây hãm thành Đông Quan, vừa chỉ đạo toàn bộ chiến dịch tiêu diệt viện binh. Đại thắng quân Minh, Lê Lợi lại xa giá thân chinh lên Xương Giang, ải Chi Lăng. Tại lễ Kính Thiên trên Núi Vua Ngự, vua đã kính cáo cảm tạ trời đất núi sông linh thiêng, khao quân dân và tri ân anh linh tử sĩ đã cảm tử để tổ quốc quyết sinh . Việc thân chinh của Lê Lợi trước khi diễn ra trận Chi Lăng - Xương Giang không phải là Lê Lợi trực tiếp cầm quân ra trận, cùng xuất chinh với đại quân mà cần hiểu theo nghĩa Lê Lợi lo điều binh khiển tướng, sắp đặt kế hoạch tác chiến và chỉ đạo cuộc chiến tranh như vị thống soái. Khi quân dân đang chuẩn bị mọi mặt đánh giặc thì Lê Lợi khởi giá thân chinh, đưa bộ thống soái và thanh gươm “Thuận Thiên” - biểu tượng sức mạnh đoàn kết, thống nhất nguyện vọng, ý chí chống giặc ngoại xâm của toàn dân tộc, từ miền xuôi cho đến miền ngược, từ đồng bằng cho đến miền rừng núi - ra chiến trường, là để cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân sĩ, kịp thời giải quyết những yêu cầu khẩn cấp của cuộc chiến “chỉ được thắng, không được thua”, “phục binh giữ hiểm, đập gãy tiền phong”, khéo “trá bại dụ địch” theo chiến thuật “đập nát đầu rắn”. Một cuộc kháng chiến mà sắp đặt thế trận đã nắm chắc phần thắng, do đó Lê Lợi thân chinh nhưng chỉ cần có mặt ở chiến trường một thời gian cần thiết cổ vũ quân và dân ta khí thế mạnh mẽ, hăng hái, sẵn sàng bước vào cuộc tổng tiến công “quyết chiến quyết thắng”.
Thế trận lòng dân
Ngoài quân đội Lam Sơn, các lực lượng vũ trang của các làng xã khắp nơi trên cả nước quy tụ về cũng được huy động vào các trận đánh diệt viện. Dấu tích Đấu Đong Quân có ở gần ải Quỷ Môn, gần Thành Kho và gần Hòn Đá Mổ Lợn là một trong những minh chứng tiêu biểu khẳng định truyền thống đoàn kết, cả nước ra trận. Từ thời Lý, “các hoàng nam từ khắp các bản, châu, làng, xã vâng mệnh Phụ quốc Thái Úy Lý Thường Kiệt, kéo về đây như chẩy hội xin được đăng lính theo chủ tướng đánh giặc. Nhiều đoàn đi suốt đêm vừa mới đến, họ đòi vào đội ngũ ngay, các đệ ghi mỏi tay mà không sao xuể, hoàng nam vẫn đang đổ về như nước lũ đầu mùa đông vô kể… lấy đấu mà đong, mỗi đấu một tốt. Các trưởng tốt và trưởng ngũ đến đấu nhận quân, cho hoàng nam nghỉ ngơi ăn uống rồi vào sổ sách, tách ra như vậy vừa nhanh việc vừa đỡ nhọc quan quân, vài ba đấu vẫn chậm thì dùng nhiều đấu cứ thế mà đong”. Đấu Đong Quân đã đong quân nhiều cuộc kháng chiến vẻ vang của cha ông ta, nay chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công chống giặc Minh, nhiều dân binh từ khắp nơi trên đất nước như Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, cho đến Tân Bình, Thuận Hóa, đồng bằng sông Nhị “quân dân ta tưng bừng trong khí thế diệt thù… hào kiệt ở kinh lộ và Nhân dân các phủ huyện cùng các từ trưởng… đều tấp nập kéo đến cửa quân, xin liều chết đánh thành giặc các xứ” . Do yêu nước và căm thù giặc, nay vượt núi băng sông kéo lên vùng Lạng Sơn, Lạng Giang, vào Đấu Đong Quân để khẩn trương chuyển về các khe núi giấu binh chuẩn bị chu đáo cho trận quyết chiến sắp tới với quyết tâm giành thắng lợi oanh liệt nhất cho dân tộc.
Trong khởi nghĩa và chiến tranh, hậu phương căn cứ địa, hậu cần là những nhân tố quyết định sự thắng lợi. Từ các cuộc khởi nghĩa chiến tranh thời Bắc thuộc (từ thế kỷ II tr. CN đến thế kỷ X), cho đến các triều Lý, Trần “vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” là một trong những nhân tố góp phần quyết định giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống Tống và Mông - Nguyên. Lê Lợi và Nguyễn Trãi cũng chủ trương vừa cày ruộng vừa đánh giặc, quân sĩ tham gia lao động sản xuất tạo nguồn lương thực. Quanh các đồn lũy đều tổ chức khẩn hoang, kết hợp chiến đấu với sản xuất quân lương. Khắp nơi Nhân dân trên cả nước ủng hộ sức người sức của để đảm bảo cho cuộc chiến tranh chống Minh giành toàn thắng. Thành Kho là một minh chứng tiêu biểu như thế. Về niên đại xây dựng Thành Kho tại Chi Lăng đến nay chưa xác định được chính xác, cần phải có công tác khảo cổ trên quy mô rộng. Nhưng tương truyền câu ca dao:
“Bao giờ Ngàn Hống Hết cây
Vực bơi hết nước, kho này hết lương”
Thành Kho nằm ở phía Tây Trạm Ngựa, gần khu vực Quán Bầu đến Cửa Dinh. Thành gồm 2 thành gạch kề nhau. Thành ở phía Nam rộng lớn hơn phía Bắc. Thành phía Nam là nơi đóng quân và thành phía Bắc là nơi chứa lương thực, vũ khí. Thành lớn được chia làm 3 thành nhỏ với hàng trăm nhà kho kiên cố . Mặt thành rộng 5m, sâu trong lòng đất chừng 2 đến 2,5m; năm 1982, thành vẫn còn chiều cao khoảng 1,5m; tầng dưới tạo thành hầm ngầm bí mật. Chất liệu xây thành kho chủ yếu là gạch với kích thước khối lượng khác nhau (từ 3,6 kg đến 36,8 kg) và làm tại Xóm Lò Gạch bên kia sông Thương. Trong thành lớn có một đường đất đắp từ Tây Nam đến Đông Bắc, và một đường nối về Đông Nam, ra đến bờ sông Thương, gần đó có 3 Đấu Đong Quân. Trước cuộc chiến, bến Vực Bơi sông Thương không chỉ là nơi luyện thủy binh mà còn là nơi tập hợp nghĩa quân, dân binh và lương thực khắp nơi trên đất nước, đặc biệt là nguồn lương thực, vũ khí từ khu vực đồng bằng sông Hồng chuyển về. Có thể theo đường bộ hoặc đường thủy đến vực Bơi sông Thương, quân lương sẽ được chuyển về Thành Kho nhập sổ kiểm đếm sau đó theo đường đất từ Tây Nam đến Đông Bắc sẽ dẫn tới khu hậu cần và giấu binh lớn nhất là Lân Dao và khu Làng Chung kéo dài đến phía Đông khu vực Núi Vua Ngự.
Cách Thành Kho về phía Đông Bắc khoảng vài trăm mét, có một con đường mòn, đi vào một thung lũng rộng chừng vài chục ha được bao bọc bởi dãy núi đá vôi cao vút của rừng già, nguồn nước ở đây chưa bao giờ cạn, ẩn hiện đây đó trên vách núi có những hang động có nhiều ý nghĩa về quân sự. Tương truyền, sau khi chia tay cha ở ải Nam Quan để thực hiện lời cha căn dặn “đền nợ nước, trả thù nhà”. Nguyễn Trãi quay trở về căn cứ địa của Hoàng Đại Huề, đi khảo sát đị hình địa vật, nghiên cứu kế sách đánh giặc: “Dưới ánh trăng khuya, hàng trăm nghĩa sĩ đang mải miết mài gươm, dao, giáo mác. Lòng xúc động sâu sắc, Nguyễn Trãi đến gặp một nhóm nghĩa sĩ trẻ, nhìn rõ những chiếc khăn tang trên đầu họ. Ông hiểu được ngọn lửa nào đã thắp sáng trái tim họ. Vừa mài vũ khí, vừa kể chuyện tổ tiên, đất nước cho anh em nghĩa sĩ nghe…”. Hoàng Đại Huề bàn với Nguyễn Trãi đặt tên cho cái lân này, Nguyễn Trãi đã đặt tên nơi đó là Lân Dao. Sau này, Lân Dao trở thành nơi tập kết hậu cần, mài sắc đoản, đao và luyện tập chuẩn bị cho trận phục binh nổi tiếng của quân ta vào mùa thu năm 1427.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đỉnh cao là chiến thắng Chi Lăng- Xương Giang đã để lại nhiều bài học quý báu cho dân tộc ta: Tính từ ngày dựng cờ khởi nghĩa, ngày 07/02/1418 (ngày 02 tháng Giêng năm Mậu Tuất) cho đến ngày quân Minh bắt đầu rút quân khỏi thành Đông Quan, ngày 19/12/1427 (ngày 12 tháng Chạp năm Đinh Mùi), khởi nghĩa Lam Sơn kéo dài gần trọn 10 năm. Đó là 10 năm chiến đấu vô cùng gian nan, ác liệt, phải vượt qua bao hi sinh thử thách, trải qua những ngày “ăn trường nếm mật, ngủ thường năm gai”, có lúc phải “thu thập tàn quân, nuôi vỗ ân cần”, “trong rèn chiến cụ, ngoài thác hòa thân” rồi tiến lên những trận đánh “sấm vang chớp giật, trúc trẻ cho bay”, tạo nên bước phát triển vượt bậc “gạo nước đón rước, người theo đầy đường”, “tiếng quân ta ngày càng vang dậy, giặc mỏi mệt ngày càng thua chạy” để cuối cùng “muộn dặm non sông thu phục lại, Đông Đô đường phố vẫn y nguyên” (Phú Chí Linh). Từ cuộc khởi nghĩa địa phương phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc mang tính Nhân dân sâu rộng, đó là quy luật hình thành, phát triển và thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn và cũng là nguyên nhân thành công cơ bản của sự nghiệp bình Ngô.
Để tổ chức lãnh đạo cuộc khởi nghĩa, Lê Lợi đã tập hợp được trong Bộ chỉ huy những người con ưu tú của dân tộc xuất thân từ hầu hết các thành phần xã hội và dân tộc có tư tưởng “thắng hung tàn bằng đại nghĩa”, “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”, “trên dưới cùng lòng, anh hùng hết sức” (Quân trung từ mệnh tập); phương châm chỉ đạo chiến tranh là “biết mình biết người, hay mạnh hay yếu” (Phú Núi Chí Linh), “người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thế mà thôi; được thời có thế thì biến mất thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời không thế mạnh hóa ra yếu, yêu lại thành nguy, sự thay đổi ấy chỉ trong khoảng trở bàn tay” (Quân trung từ mệnh tập). Đó là một quân đội kiên cường, bất khuất, có bản lĩnh chiến đấu cao và có sức chiến đấu bền bỉ, dẻo dai.
Một sáng tạo của nghĩa quân Lam Sơn là kết hợp đấu tranh quân sự với vận động chiêu dụ quân địch, thực hiện lối “công tâm” (đánh vào lòng người). Nguyễn Trãi là người đề ra phương châm này và cũng là người đã thực hiện thành công việc chiêu dụ quân Minh trong nhiều thành bị bao vây. Đây là lối đánh kết hợp bao vây và dụ hàng mà kết quả nhiều thành quân Minh đã phải ra hàng. Phương pháp này là bài học kinh nghiệm quý báu được dân tộc ta vận dụng thành công trong kháng chiến chống Mỹ.
Vào giai đoạn cuối, chủ trương vây thành diệt viện cũng là một sáng tạo của Bộ chỉ huy nghĩa quân mà người kiên trì chủ trương là Nguyễn Trãi. Chủ trương này đã dẫn đến kết quả là quân ta bảo toàn được lực lượng, vừa vây hãm quân Minh trong các thành, vừa tập trung được lực lượng lớn để tiêu diệt viện binh. Sau khi viện binh bị tiêu diệt thì thì quân Minh trong các thành Đông Quan và các thành khác không còn con đường nào khác ngoài việc đầu hàng để bảo toàn tính mạng. Kết thúc chiến tranh bằng giải pháp ngoại giao cũng được nâng cao lên một trình độ mới. Buộc quân giặc rút quân về nước, trao trả toàn bộ lãnh thổ cho ta, giành lại nền độc lập và giảm bớt tổn hại xương máu cho quân sĩ hai nước. Chủ trương kết thúc chiến tranh đầy mưu trí đó thể hiện trong mục tiêu và nội dung cơ bản của “Hội thề Đông Quan”.
Vĩ Thanh
Chiến thắng Chi Lăng đã giáng một đòn quyết định, quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước ta, giành độc lập tự do cho nước nhà, lịch sử dân tộc Việt Nam bước sang trang mới “Độc lập, tự chủ và phồn vinh”, ghi một mốc son chói lọi vào trang sử vàng của dân tộc, biểu thị sự nỗ lực phi thường của nghĩa quân Lam Sơn, nghệ thuật quân sự điêu luyện và tài thao lược kiệt xuất của Lê Lợi, Nguyễn Trãi, của cha ông ta ở thế kỷ XV, là sự kết hợp chặt chẽ giữa quân và dân trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Chiến thắng Chi Lăng là biểu hiện tập trung ý chí và nghị lực, tinh thần quyết chiến, quyết thắng, trí thông minh sáng tạo của dân tộc ta. Chiến thắng đã chấm dứt 20 năm đô hộ tàn bạo của nhà Minh, mở ra một trang mới trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, tất cả niềm tự hào được vang lên hào sảng trong lời kết của áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô Đại Cáo: “ Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới”... Đây cũng là một trong những chiến thắng góp phần làm rạng rỡ trang sử Việt, đặt nền móng để nước Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập, phát triển hùng cường.
Lịch sử các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm hay chiến tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam thường được kết thúc bằng một trận quyết chiến chiến lược. Trong lịch sử đấu tranh bảo vệ nền độc lập của dân tộc Việt Nam, có hai địa danh nổi tiếng gắn với những chiến công hiển hách của dưới các triều đại quân chủ Lý, tiền Lê, Trần và hậu Lê. Đó là sông Bạch Đằng và ải Chi Lăng (Lạng Sơn).
Quá trình xây dựng và phát triển trải qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, mảnh đất Chi Lăng luôn là biểu tượng của những chiến công hào hùng, làm rạng danh non sông đất nước. Do đó, việc xây dựng không gian văn hóa để tưởng niệm chiến thắng Chi Lăng là cần thiết. Với nhiều giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, khoa học, giáo dục, du lịch, quân sự và ngoại giao, các địa danh liên quan đến các sự kiện lịch sử, đặc biệt là chiến thắng Chi Lăng năm 1427 đã được công nhận là di tích Quốc gia ngay từ đợt xếp hạng đầu tiên năm 1962 theo Quyết định số 313-VH/VP, ngày 28/4/1962 của Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch); năm 2019, di tích lịch sử Chi Lăng được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 1954/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2019 khẳng định vị trí quan trọng của khu di tích trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc Việt Nam.
Trưởng Đại diện UNESCO tại Việt Nam Christian Manhart khẳng định: “Di sản không chỉ là thứ để gìn giữ, mà còn là chất liệu để kiến tạo tương lai”. Bảo tồn di tích chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang không chỉ là giữ lại quá khứ, mà là làm cho quá khứ sống cùng hiện tại, để những giá trị xưa tiếp tục soi sáng tương lai.
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, giai đoạn 1938 – 1944, là khoảng thời gian địch cấu kết thực hiện âm mưu khủng bố trắng cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Tây Trung Quốc năm 1942, nhiều học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - những đồng chí tiền bối cách mạng - bị bắt, bị tù đày và tra tấn, sát hại dã man nhưng đều giữ vững khí tiết người cộng sản, như: đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương hi sinh lúc 37 tuổi (01/5/1904 – 06/9/1931); đồng chí Lê Hồng Phong, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương hy sinh lúc 40 tuổi (06/9/1902 - 06/9/1942); đồng chí Nguyễn Văn Cừ Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương hi sinh lúc 29 tuổi (9/7/1912 - 28/8/1941); đồng chí Vũ Văn Hiếu, phụ trách cơ quan Văn phòng Trung ương Đảng, hi sinh lúc 36 tuổi (1907 – 1943); nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, hy sinh lúc 43 tuổi (15/9/1900 – 14/8/1943); đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, hy sinh lúc 30 tuổi (1/11/1910 – 28/8/1941); đồng chí Nguyễn Thị Quang Thái (người vợ đầu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp), hi sinh lúc 30 tuổi (1915-1944); đồng chí Lương Văn Tri, hy sinh lúc 30 tuổi (17/8/1910 - 29/9/1941), … Đồng chí Hoàng Văn Thụ, nhà lãnh đạo cao cấp của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ, Bí thư Tổng bộ Việt Minh cũng hy sinh lúc tuổi đời còn rất trẻ (35 tuổi).
Lúc đó, những câu chuyện về nghĩa quân Lam Sơn và chiến thắng Chi Lăng được tuyên truyền mạnh mẽ để khơi dậy tinh thần yêu nước, kiên cường của cả dân tộc ta. Giai đoạn 1940 – 1944 và cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, bài hát “Ải Chi Lăng” do nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sáng tác được biểu diễn trong các hội nghị, chiến dịch, giúp "át tiếng bom" và động viên bộ đội, thương binh, tiếp tục khơi dậy tinh thần người Việt Nam và niềm tin tưởng quyết thắng “Trong cuộc đấu tranh sinh tử giữa chúng tôi – những người mất nước và các ông – những kẻ cướp nước, sự hy sinh của những người như tôi là một sự dĩ nhiên. Chỉ biết rằng, cuối cùng chúng tôi sẽ thắng” (Hoàng Văn Thụ).
Trong những năm qua, tỉnh Lạng Sơn luôn quan tâm công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Khu di tích lịch sử Chi Lăng, coi đây là một nhiệm vụ quan trọng gắn với mục tiêu phát triển du lịch bền vững của tỉnh. Để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử Chi Lăng xứng tầm là di tích quốc gia đặc biệt, ngày 06/10/2021, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lạng Sơn đã ban hành “Nghị quyết số 51-NQ/TU về bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử Chi Lăng giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030”. Ban cán sự đảng Ủy ban Nhân dân tỉnh chỉ đạo xây dựng, ban hành Kế hoạch số 24/KH-UBND ngày 09/02/2022 về việc thực hiện Nghị quyết số 51-NQ/TU, ngày 06/10/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; HĐND tỉnh tăng cường giám sát công tác triển khai thực hiện; nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách phù hợp nhằm bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử Chi Lăng; Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội đã tích cực, phối hợp đẩy mạnh công tác giám sát và phản biện xã hội các nội dung liên quan đến việc triển khai thực hiện tới các sở, ngành, đoàn thể của tỉnh, tuyên truyền đến người lao động và đông đảo các tầng lớp Nhân dân tạo sự đồng thuận trên địa bàn toàn tỉnh, ngoài tỉnh.






