1. Cái tên phổ biến nhất và có thể được xem như một mẫu gốc – hổ - lại có nguồn gốc từ tiếng Hán. Chữ Hổ (虎) được chiết tự là sự mô phỏng hình dáng của chính con hổ đang ngồi quỳ. Một nét sổ và một nét ngang bên trên là hai cái tai của nó, ở giữa là đầu và mồm (miệng) đang há to. Phía dưới là hai cái chân (đùi) trước, bên trái một nét phẩy là cái thân và cái đuôi. Cũng có người chiết tự chữ hổ gồm bộ hô và bộ nhi, trong đó bộ hô là hình những đường vằn trên lưng con hổ còn bộ nhi thì giống như người đang đi.
Chữ Hổ gắn liền với sức mạnh, sự quyết liệt, dữ dội, oai phong, có lẽ vì thế mà nó cũng được chọn để đặt cho tên người. Nhiều danh sĩ của Việt Nam thời trung đại có tên Hổ dù không phải sinh năm hổ.
Đầu tiên phải kể tới Lê Như Hổ sinh năm 1511 (tuổi Tân Mùi), tại làng Tân Châu, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, thi đỗ tiến sĩ năm Quang Hòa thứ nhất đời vua Mạc Phúc Hải, làm quan đến chức Thượng thư, được phong hàm Thiếu bảo, tước Tuấn quận công, mất năm 1581, thọ 71 tuổi.
Hay như một nhân vật nổi tiếng khác sống vào nửa cuối thế kỷ 18, nửa đầu thế kỷ 19 là Phạm Đình Hổ vốn là tuổi Mậu Tí (1768), làm quan đến chức Tế tửu Quốc Tử Giám dưới triều vua Minh Mệnh. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách có giá trị như Vũ Trung tùy bút, Tang thương ngẫu lục và nhiều tập thơ chữ Hán. Phạm Đình Hổ cũng được cho là người đã để lại nhiều giai thoại văn học trong đối đáp với bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
Một nhân vật gần với thời hiện đại hơn cả là Tăng Bạt Hổ cũng vốn là người tuổi Mậu Ngọ (1858), là chí sĩ Việt Nam tham gia chống Pháp nửa cuối thế kỷ 19, nửa đầu thế kỷ 20.
Chữ “hổ” đi vào nhiều thành ngữ tục ngữ quen thuộc trong đời sống người Việt như: Thả hổ về rừng, Cầm gươm đằng lưỡi cưỡi hổ đằng đầu, Chim cùng thỉ mổ hổ cùng thì vồ, Đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau, Hổ chết để da người ta chết để tiếng.
Một số đơn vị tục ngữ khác do người Việt vay mượn từ tiếng Hán nhưng cũng được sử dụng tương đối nhiều và trở thành quen thuộc như: Hổ phụ sinh hổ tử, Nam thực như hổ nữ thực như miêu, Họa hổ họa bì nan họa cốt.
Các câu tục ngữ thành ngữ vừa kể dẫu ý nghĩa khác nhau nhưng có thể dễ dàng nhìn thấy một mẫu số chung, đó là sự công nhận con hổ như một sức mạnh nguy hiểm khiến người ta phải kiêng dè, e sợ, đề phòng.
Trong nhiều trường hợp, sức mạnh khả năng của con hổ được so sánh, ví von với những thành tựu, kết quả của con người và được thừa nhận như một giá trị.
Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, nhắc đến con hổ là phải nhớ tới thi phẩm nổi tiếng của Thế Lữ mang tên Nhớ rừng, như một ẩn dụ kín đáo về lòng yêu nước trong thời kỳ Thơ Mới (1932 - 1945). Ông mượn lời con hổ trong vườn bách thú để bày tỏ nỗi nhớ tiếc về những tháng ngày tự do, được tung hoành giữa đại ngàn: Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối/ Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan/ Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn/ Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới/ Đâu những bình minh cây xanh nắng gội/ Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng/ Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng/ Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt/ Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật/ Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
2. Có hai cái tên thuần Việt khác của con hổ là hùm và cọp. Trong đó hùm còn có một tên gọi chệch khác là hầm (Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị - Nhớ rừng, Thế Lữ) có thể được xem là một từ mô phỏng âm thanh (tiếng gầm) của con hổ. Chữ hùm cũng đi vào nhiều thành ngữ tục ngữ của người Việt như: Cáo mượn oai hùm, Hùm dữ không ăn thịt con, Vuốt râu hùm, Sợ hùm sợ cả cứt hùm.
Một nhà cách mạng khá nổi tiếng của nước ta nửa đầu thế kỷ 20 là Phan Văn Hùm, sinh năm Nhâm Dần (1902), mất năm Bính Tuất (1946), là lãnh tụ phong trào Cộng sản Đệ Tứ. Từng tốt nghiệp đại học và cao học ở Đại học Sorbonne (Paris), Phan Văn Hùm là tác giả của nhiều tác phẩm khảo cứu có giá trị như Phật giáo triết học, Tiền bạc (Khảo cứu về tiền tệ) và Biện chứng pháp phổ thông.
Nếu như chữ hùm (hầm) được coi là mô phỏng về âm thanh (tiếng con hổ) thì chữ cọp lại được xem là mô phỏng về những bước chân nặng, bí hiểm, chứa đựng nhiều đe dọa của loài mãnh thú.
Bài Tây Tiến của thi sĩ Quang Dũng có một câu thơ đặt hai dấu nặng cạnh nhau, trong đó có một chữ cọp, được nhiều người cho là mô phỏng cho những bước chân đầy sự hăm dọa này: Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người.
Tục ngữ Việt cũng có một đơn vị sử dụng chữ cọp: Ki cóp cho cọp nó xơi (hoặc Ki cóp cho cọp nó tha). Có một tên gọi khác của con hổ, cũng mang gốc thuần Việt nhưng ngày nay ít dùng, đó là kễnh (còn có một biến âm là hếnh).
Với khuôn vần “ênh”, kễnh cũng có thể xem là một từ ít nhiều mang tính chất mô phỏng cho dáng hình to lớn của con hổ. Ta có thể đặt “kễnh” trong một trường các từ tương tự như: Kềnh, kềnh càng, kênh, công kênh, lênh khênh, khệnh để thấy điều này.
Trong đời sống sử dụng ngôn ngữ của người Việt, từ “ông kễnh” ngoài việc dùng để chỉ con hổ còn được dùng để chỉ những kẻ có vẻ ngoài bộc lộ ngạo mạn, trịch thượng, muốn bắt người khác phải phục vụ mình. Chữ “kễnh” chỉ con hổ cũng đi vào một số câu ca dao: Mèo tha miếng thịt thì đòi/ Kễnh tha con lợn mắt coi trừng trừng.
Khái cũng được xem là một từ chỉ con hổ nhưng có phạm vi hoạt động hẹp hơn, thuộc về phương ngữ của một số vùng miền Trung. Thành ngữ tục ngữ có các câu: Đi rừng gặp khái, Sợ khái không thà sợ cứt khái.
Trong tiếng Việt, còn có một từ “khái” với ý nghĩa “cứng cỏi, mạnh mẽ, không chịu khuất phục”. Ta có các đơn vị như khí khái, khái tính. Tôi cho rằng chữ “khái” (tính từ) này có những liên hệ phái sinh nhất định về mặt ý nghĩa so với chữ “khái” (danh từ) chỉ con hổ.
3. Ở phía trên, chúng tôi đã nói đến những tên gọi dành cho con hổ với cấu trúc là một từ đơn. Bên cạnh các tên gọi từ đơn như vừa kể trên, còn phải nói đến các diễn đạt về con hổ với cấu trúc một cụm từ, bao gồm: Chúa sơn lâm và ông ba mươi. Trong tên gọi chúa sơn lâm, cả ba thành tố đều mang gốc Hán.
Chữ “chúa” là một cách đọc khác của chữ “chủ” với ý nghĩa là người đứng đầu, người quyết định mọi việc cốt yếu trong một tập thể.
Hai chữ sơn lâm (núi rừng) chỉ phạm vi không gian hoạt động. Dùng cụm từ “chúa sơn lâm” để chỉ con hổ, cộng đồng sử dụng ngôn ngữ một lần nữa khẳng định về sức mạnh và uy quyền của con hổ trong mối tương quan với tất cả các loài động vật hoang dã sinh sống ở núi rừng.
Chữ “chúa” và chữ “sơn lâm” đều xuất hiện trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ: Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già/ Với tiếng gió gào ngàn với giọng nguồn hét núi.../ Ta biết ta chúa tể của muôn loài/ Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi.
Còn với trường hợp “ông ba mươi”, có hơn một cách lý giải khác nhau. Trong bộ sách Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam do Nguyễn Đổng Chi biên soạn, có câu chuyện mang tên Phạm Nhĩ hay là sự tích ông ba mươi. Truyện kể về một vị thần trên trời tên là Phạm Nhĩ, có sức khỏe vô song và nhiều tài phép thần thông. Vì giỏi hơn rất nhiều vị thần khác nên Phạm Nhĩ ngày càng tỏ ra kiêu căng tự phụ, dẫn tới khinh nhờn Ngọc Hoàng và yêu cầu Ngọc Hoàng phải nhường ngôi cho mình. Nhiều tướng lĩnh nhà trời được cử ra thi đấu đều thảm bại dưới tay Phạm Nhĩ. Sau cùng, Ngọc Hoàng phải mời Đức Phật đến thu phục. Sau khi Phạm Nhĩ thua trận, Ngọc Hoàng sai cắt bỏ đôi cánh để ông bớt sức mạnh và đầy ông xuống trần gian. Tuy nhiên, mỗi khi vùng nào có người săn được hổ, ngoài việc người thợ săn được thưởng ba mươi quan tiền thì vua cũng bắt người đó phải chịu ba mươi hèo để vong hồn Phạm Nhĩ được thỏa mà không tác quái nữa. Con hổ từ đó còn có tên là ông ba mươi.
Một vùng khác lại tương truyền câu chuyện cổ về cô gái giết hổ báo thù cho cha và anh. Cô giết được hổ nhưng bị thương rất nặng và không qua khỏi. Cô gái sau đó đã được phong thần ở trên trời. Cảm động về lòng hiếu nghĩa và dũng cảm của cô, Ngọc Hoàng cho cô mỗi năm vào đúng đêm ba mươi Tết được về thăm nhà, thăm mẹ và các em. Đến sáng mùng Một thì cô lại bay lên thượng giới. Vì điển tích này mà con hổ có thêm tên gọi ông ba mươi.
4. Tóm lại, con hổ trong đời sống ngôn ngữ và văn hóa của người Việt có thể mang đến 10 cái tên như sau: Hổ, hùm, hầm, cọp, kễnh, hếnh, khái, dần, ông ba mươi, chúa sơn lâm, trong đó có 8 tên là từ đơn và 2 tên là cụm từ. So với các con vật khác trong bảng can chi, hổ là con vật có nhiều tên gọi nhất (Đứng vị trí thứ hai là con chó với 7 tên gọi: Chó, cún, cẩu, khuyển, mộc tồn, cầy, tuất).
Lý giải về việc có nhiều tên gọi của con hổ, chúng tôi cho rằng điều này bắt nguồn từ tâm lý e sợ, ngần ngại của con người khi phải đối diện với chúa sơn lâm. Đứng về quy luật ngôn ngữ học và tâm lý học mà xét, khi một khái niệm có nhiều tên gọi, có thể bắt nguồn từ hai nguyên nhân chính:
- Tầm quan trọng, thân thuộc của sự việc/hành động/ khái niệm ấy trong đời sống con người.
- Cộng đồng dân cư cố tình sử dụng nhiều tên gọi mang sắc thái nói giảm nói tránh vì một lý do nào đó gắn với tâm lý con người. Việc các động từ chỉ các hoạt động cơ bản như ăn uống, bài tiết, tình dục có nhiều tên gọi chính là minh chứng rõ rệt cho quy luật tâm lí – ngôn ngữ ấy.
Tìm hiểu con hổ với sự phong phú về tên gọi trong tiếng Việt cho ta một bức tranh thú vị và sống động về ngôn ngữ và văn hóa của cộng đồng.
Đỗ Anh Vũ
Bài đăng trên ấn phẩm tạp chí in Đời sống & Pháp luật số gộp 23+24+25+26+27+28+29+30+31+32 (Từ ngày 21/1 đến ngày 7/2/2022)