+Aa-
    Zalo

    Cô gái biến mất sau khi kể chuyện sinh con với cha đẻ

    • DSPL

    (ĐS&PL) - Cô gái tố cáo cha bắt phải “ngày chăn bò, tối làm nô lệ tình dục” dẫn đến có con. Cơ quan chức năng vào cuộc, xác định người cha bị vu oan, nhưng người hàm oan đã chịu vô

    Cô gái tố cáo cha bắt phải “ngày chăn bò, tối làm nô lệ tình dục” dẫn đến có con. Cơ quan chức năng vào cuộc, xác định người cha bị vu oan, nhưng người hàm oan đã chịu vô vàn cay đắng.
    “Người rừng” tố cáo cha
    Đầu tháng 6/2012, khi phát hiện hai mẹ con chị A. (SN 1987, ngụ thôn Tân Phú, xã Xuân Sơn Nam, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên) sống giữa rẫy đồi vắng vẻ, một số người cho rằng họ là “người rừng”. Thông tin sau đó lan truyền với tốc độ chóng mặt trong người dân.
    Người rừng” tố cáo khoảng năm 2004, cha chị là ông H. (SN 1949) đưa mình lên khu rừng Lỗ Dàng (xã Xuân Long, huyện Đồng Xuân) để làm rẫy và chăn bò. Sống trên rẫy lâu ngày, chị muốn về thăm nhà và gặp gỡ bạn bè nhưng cha không cho về. Chị buộc phải ở lại trông đàn bò và sống một mình trong căn nhà nhỏ trong rẫy.
    Chị A. cho rằng, khi chị ở trên rẫy thì cha mình cũng thường xuyên ngủ lại. Ông H. thường nằm ở chiếc võng mắc trên gốc cây trước nhà, trong khi đó chị ngủ trong nhà. Một đêm nọ chị đang ngủ trong nhà thì cha bỏ võng vào nhà cưỡng ép mình. Vì ở giữa núi đồi lại lúc đêm vắng nên không ai hay biết sự việc. Sợ cha đánh đập nên chị âm thầm chịu đựng không dám kể lại cho ai biết.
    Cô gái biến mất sau khi kể chuyện sinh con với cha đẻ
    Đăng Thị T.A và người con
    Đầu năm 2011, chị A. sinh một bé gái trong chính ngôi nhà trên rẫy. Người đỡ đẻ không ai khác mà chính là cha mẹ của chị. Cô gái không biết lý do tại sao cha mẹ mình lại muốn giấu kín mọi chuyện mặc dù biết việc sinh đẻ trong hoàn cảnh như vậy rất nguy hiểm. Nhiều người tin rằng những lời của chị A. là sự thật. Từ ngày sinh con, người mẹ gọi con với cái tên N., đó chính là nơi đứa bé được sinh ra, sống cùng mẹ.
    Cuộc sống hai mẹ con cứ thế trôi đi cho đến giữa tháng 6/2012, một nhóm người đến Lỗ Dàng và chị A. kể lại sự việc. Sau đó, mẹ con chị về thị trấn La Hai rồi được Công an huyện Đồng Xuân bố trí chỗ ăn, chỗ ở.
    Sau khi được đưa về từ rừng núi, hai mẹ con chị A. nhận được sự quan tâm, chia sẻ từ cộng đồng xã hội. Sở Lao động - Thương binh và xã hội, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Phú Yên, UBND huyện Đồng Xuân và một số cơ quan chức trách đã chung tay giúp đỡ, kịp thời chăm sóc, động viên tinh thần hai mẹ con.
    Những người hàng xóm và các tấm lòng hảo tâm gần xa cũng đóng góp tiền, quà để ủng hộ cho hai mẹ con. Sau đó, mẹ con chị A. đã được đưa về tạm trú tại Trung tâm Chữa bệnh - giáo dục - lao động xã hội tỉnh Phú Yên.
    Để sớm làm sáng tỏ vụ việc, tránh gây tác động tiêu cực tới dư luận, công an huyện Đồng Xuân lập tức vào cuộc điều tra. Theo kết luận, năm 2002 ông H. đến khu rừng Lỗ Dàng mua gom khoảng 6 ha đất rẫy để trồng trọt và chăn nuôi bò. Ông H. cũng xây một ngôi nhà mái tôn nhỏ tại rẫy để làm nơi che mưa che nắng. Chị A. nghỉ học sớm nên giữa năm 2004 được cha đưa lên Lỗ Dàng phụ giúp gia đình làm rẫy, chăn bò. Việc chị phải ở lại trông rẫy làm cỏ chăn bò thời gian dài không được về nhà, bị cha cấm cản không cho con gái tiếp xúc với người ngoài là có thật.
    Để làm sáng tỏ điểm nghi vấn ông H. có phải là cha đứa bé như lời kể của chị A. hay không, Công an huyện Đồng Xuân quyết định trưng cầu giám định pháp y bằng phương pháp xét nghiệm ADN. Ngày 14/6/2012, Công an huyện Đồng Xuân đã đưa hai mẹ con chị A. đến Phân viện Khoa học hình sự Bộ Công an tại Đà Nẵng để giám định ADN. Kết quả xét nghiệm sau đó khẳng định bé gái mà chị A. sinh ra không phải là con của ông Hải.
    Công an cũng đồng thời nhận được thông tin từ các cán bộ, nhân viên ở Trung tâm chữa bệnh - giáo dục - lao động xã hội tỉnh Phú Yên về tình hình sức khỏe và tinh thần của chị A. Họ cho biết chị A. nhận thức rất hạn chế, khá chậm chạp, thần kinh không bình thường. Như vậy, lời khai của chị A. về cha đứa bé là sai sự thật.
    Mẹ con cô gái khù khờ đã mất tích
    Gọi cửa mãi, chúng tôi mới gặp được bà D. (SN 1950, mẹ chị Anh). Người đàn bà khắc khổ trong cả thân người và dáng đi, ánh mắt hiện nỗi lo âu khi có người lạ tìm đến nhà. Vừa loay hoay mở hai ổ khóa, bà cho biết hơn hai năm qua, hai vợ chồng bà và các con sống trong nhục nhã, cay đắng. Mặc dù sự việc đã được làm rõ trắng đen, rằng ông H. không biến con gái thành nô lệ tình dục, nhưng có người vẫn đồn đại ông Hải loạn luân. “Họ nói về ổng mà miệt thị chẳng khác gì nói về loài súc vật. Đứa con út của vợ chồng tôi năm ngoái học hết lớp 8 không dám đi học nữa vì xấu hổ với bạn bè”, bà nói.
    Vợ chồng bà D. có 5 người con, trong đó chị A. là người con thứ ba, từ bé thường đau ốm nên sinh ra khù khờ. Vốn “lúc tỉnh lúc mê” lại không được học hành nên chị A. không nhận thức được những thứ dù là nhỏ nhất. Khi hỏi thăm con gái và cháu ngoại của bà giờ ra sao, người đàn bà nói như muốn khóc: “Mẹ con nó bỏ nhà đi rồi”.
    Theo lời bà, sau khi được giải nỗi oan khuất, cuối tháng 7/2012, bà đến Trung tâm chữa bệnh - giáo dục - lao động xã hội tỉnh Phú Yên để xin đưa hai mẹ con chị A. về nhà chăm sóc. Nguyện vọng của bà cuối cùng cũng được cơ quan chức năng chấp nhận khi một tháng sau đó, chị A. và cháu bé được đưa về với gia đình.
    Từ ngày con gái về nhà, hai ông bà biết con gái mình khờ khạo, nhận thức hạn chế, ai bảo gì cũng nghe theo nên hai người không nhắc lại chuyện cũ. Chị A. không phải lên rẫy nữa mà chỉ ở nhà chăm sóc con gái. Hằng ngày chị A. quanh quẩn trong nhà làm những công việc vặt như nấu cơm, quét nhà, giặt giũ. Hai mẹ con quấn quýt nhau, hết ở trong nhà lại ra vườn chơi đùa.
    Bà D. chua xót: “Giận con lắm chứ, nhưng nó như vậy nên vợ chồng tôi cũng chỉ biết khóc thôi. Dù sao nó cũng là nạn nhân khi bị người ta dụ dỗ rồi bày cách đổ tội cho cha. Mọi chuyện qua rồi, tai tiếng cũng mang đủ cả rồi nên không nhắc lại nữa”.
    Thời gian trôi qua, vào một ngày tháng 8/2013, khi bà D. và cả gia đình đi gặt lúa đến trưa về nhà thì không thấy mẹ con chị A. ở nhà. Cả nhà ngược xuôi đi tìm thì người hàng xóm cho biết sáng hôm đó chị A. bế con gái cầm tờ một trăm nghìn đồng đi ra quán nước mua kẹo. Sau đó hai mẹ con đi ra khỏi quán rồi đi đâu chẳng rõ. Đây cũng là lần cuối cùng người dân thôn Tân Phú thấy hai mẹ con cô gái.
    Bà D. nghẹn lời vì nhớ cháu: “Hằng ngày tôi đi làm về, đứa bé vẫn chạy ra ngoài ôm tôi gọi: “Bà ngoại! Bà ngoại”. Thế mà hôm đó tôi về nhà chẳng thấy bóng dáng cháu lẫn mẹ nó đâu. Nó làm gì mà có một trăm nghìn đồng cơ chứ, đến đồng tiền mệnh giá bao nhiêu nó cũng không đọc ra nữa là. Chẳng biết ai lại cho tiền rồi nhẫn tâm dụ dỗ nó đi để rồi người ta lại đồn rằng chúng tôi đánh đập, hành hạ nó khiến nó phải bỏ nhà đi”.
    Bà N. (SN 1960, hàng xóm bà D.), cho biết: “T.A từ bé vốn khờ khạo chậm chạp nên từ ngày được đưa về nó cũng chỉ quanh quẩn trong nhà với con gái. Những lúc nó ra giếng giặt đồ, tôi vẫn thường hay trò chuyện với nó. Đứa nhỏ lanh lẹn, ngoan và dễ thương lắm. Ai ngờ tôi vừa khen hôm trước thì hôm sau bà ngoại nó bảo hai mẹ con đã bỏ nhà đi, đến nay không một tin tức”.
    Ông Th., Trưởng thôn Tân Phú, cho biết: “Việc ông H. bị hàm oan đã được chính quyền đề cập, đính chính trong các buổi họp dân. Chính quyền địa phương cũng đến tận nhà để tâm sự, chia sẻ chuyện buồn với gia đình. Chúng tôi cũng vận động bà con lối xóm góp tiền, quà để ủng hộ giúp đỡ cho mẹ con chị A.
    Mặc dù vậy, nhiều người vẫn cố tình đồn đại, loan tin thất thiệt. Việc mẹ con chị A. bỗng nhiên mất tích đã được bà D. trình báo, sau đó chính quyền xã, thôn đã đến nhà để thăm hỏi, động viên. Chính quyền cũng thông báo sự việc để các cá nhân, tổ chức cùng chung tay tìm kiếm, hy vọng đưa được hai mẹ con trở về”.
    Link bài gốcLấy link
    https://doisongphapluat.nguoiduatin.vn/dspl/co-gai-bien-mat-sau-khi-ke-chuyen-sinh-con-voi-cha-de-a42847.html
    Zalo

    Cảm ơn bạn đã quan tâm đến nội dung trên.

    Hãy tặng sao để tiếp thêm động lực cho tác giả có những bài viết hay hơn nữa.

    Đã tặng:
    Tặng quà tác giả
    BÌNH LUẬN
    Bình luận sẽ được xét duyệt trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.
    Tin liên quan