+Aa-
    Zalo

    Chụp ảnh người ngoại tình đưa lên mạng, có phạm pháp?

    • DSPL

    (ĐS&PL) - (ĐSPL) - Trường hợp hành vi tung ảnh nhằm mục đích xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác thì mới có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    (ĐSPL) - Trường hợp hành vi tung ảnh nhằm mục đích xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác thì mới có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Hỏi: Chị gái em kết hôn và đã có em bé được hơn 2 tuổi. Gần đây, chị phát hiện chồng có bồ và công khai trên các trang mạng xã hội. Hơn thế nữa, họ còn đòi cưới nhau. Quá sốc, chị có đăng bài viết lên trang eva (là hội kín) và tâm sự (có đăng kèm ảnh của chồng). Sau này, có 1 người bạn của chị gái chia sẻ lên Facebook cá nhân (không nhắc đến tên mà chỉ chia sẻ - có ảnh), mọi người đọc được và share. Chồng chị sau đó bị chuyển công tác. Giờ chồng đang kiện người bạn.

    Em muốn hỏi:

    1. Chồng chị gái em có thể kiện người bạn này được không?

    2. Chị gái em có thể kiện chồng tội ngoại tình được không?

    Đăng ảnh người khác ngoại tình có bị khởi kiện không?

    Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến trang Tư Vấn của báo Đời Sống & Pháp Luật. Với thắc mắc của bạn, xin được đưa ra quan điểm tư vấn như sau:

    Về khởi tố người bạn tung ảnh ngoại tình

    Theo quy định tại Điều 121 Bộ luật hình sự về tội làm nhục người khác thì:

    "1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm:

    a) Phạm tội nhiều lần;

    b) Đối với nhiều người;

    c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    d) Đối với người thi hành công vụ;

    đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình.

    3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm".

    Làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của con người. Người phạm tội phải là người có hành vi (bằng lời nói hoặc hành động) xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác như lăng mạ, chửi rủa thậm tệ, cạo đầu, cắt tóc, lột quần áo, quay clip... Để làm nhục người khác, người phạm tội có thể có những hành vi vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực như bắt trói, tra khảo, vật lộn, đấm đá hoặc khống chế, đe dọa, buộc người bị hại phải làm theo ý muốn của mình. Nếu hành vi làm nhục người khác cấu thành một tội độc lập thì tùy từng trường hợp cụ thể, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục người khác và tội tương ứng với hành vi đã thực hiện.

    Theo như thông tin mà bạn cung cấp thì người em này chỉ chia sẻ ảnh mà trước đó chị này (bồ) đã đăng lên facebook, em này không nhắc đến tên mà chỉ chia sẻ - có ảnh. Theo quy định của pháp luật thì chỉ trong trường hợp này nếu hành vi nêu trên nhằm mục đích xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác thì mới có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định tại điều 121 BLHS hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính . Còn đơn thuần chỉ là chia sẻ ảnh thì không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay xử phạt vi phạm hành chính. Do đó, nếu chỉ là hành vi chia sẻ ảnh nêu trên khiến người đàn ông kia bị chuyển công tác, và hiện tại ông ta muốn khởi tố người em đó là chưa đủ cơ sở.

    Có thể kiện về tội ngoại tình được không?

    Để bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình, tại Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định:

    “2. Cấm các hành vi sau đây:

    a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

    b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;

    c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

    d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;…”

    Do đó, trong trường hợp người vợ và người chồng chưa ly hôn nhưng nếu có căn cứ người chồng đó đã có hành vi chung sống với người phụ nữ khác, người phụ nữ đó lại đó có bẩu thì người chồng thì đủ cơ sở để kết luận người chồng đã vi phạm chế độ hôn nhân 1 vợ một chồng, vi phạm điều cấm của pháp luật. Vì thế, người vợ có thể gửi đơn lên Ủy ban nhân dân xã đề nghị xử lý hành vi vi phạm pháp luật của người chồng và người phụ nữ đó.

    Khoản 1 Điều 48 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã quy định:

    "1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

    a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

    b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;

    c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;

    d) Kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;

    đ) Kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi;

    e) Kết hôn giữa người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.

    Tại Điều 127 BLHS cũng quy định như sau:

    “1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.

    2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”

    Như vậy, nếu như người vợ có bằng chứng về việc người chồng có ngoại tình và có con với người phụ nữ khác, sau đó bên cơ quan, đoàn thể nơi bạn công tác nhận được thông tin này thì có thể anh sẽ phải chịu những biện pháp giáo dục, kỷ luật tùy theo điều lệ của cơ quan, tổ chức nơi bạn làm việc… Nếu như sau khi giáo dục, người chồng này vẫn tiếp tục hành vi của mình, dẫn đến gia đình tan vỡ, vợ chồng ly hôn hoặc có những hậu quả nghiêm trọng khác thì người chồng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 147 Bộ Luật hình sự. Còn theo như thông tin mà bạn cung cấp nêu trên thì chồng của người này mới chỉ dự định sẽ cưới mà không có căn cứ hay bằng chứng gì thêm thì người chồng này không thể truy cứu trách nhiệm hành chính hay hình sự về tội ngoại tình được.

    Hy vọng rằng sự tư vấn sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì xin gửi về báo Đời sống & Pháp luật.

    Luật gia Đồng Xuân Thuận

    Cập nhật các bài viết liên quan tại chuyên mục : An Ninh Hình SựTin báo pháp luật mới
    Link bài gốcLấy link
    https://doisongphapluat.nguoiduatin.vn/dspl/chup-anh-nguoi-ngoai-tinh-dua-len-mang-co-pham-phap-a139673.html
    Zalo

    Cảm ơn bạn đã quan tâm đến nội dung trên.

    Hãy tặng sao để tiếp thêm động lực cho tác giả có những bài viết hay hơn nữa.

    Đã tặng:
    Tặng quà tác giả
    BÌNH LUẬN
    Bình luận sẽ được xét duyệt trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.
    Tin liên quan