(ĐSPL) – Bệnh zona thần kinh có tên gọi dân gian là giời leo, là một bệnh cấp tính thuộc hệ thần kinh trung ương.
Bệnh zona thần kinh do virut Vancella Zoster - một loại virut ái tính thần kinh nhiễm vào hạch của các rễ sau gây đau dây thần kinh rồi phát thành ban.
Theo y học cổ truyền, bệnh zona thần kinh nằm trong phạm trù bệnh ngoại khoa, trong các y văn cổ có nhiều tên gọi khác như: triền yêu hỏa đơn, hỏa đái sang, xà đơn, xà xuyên sang, tri thù sang, v.v… Những tên này được đặt căn cứ vào vị trí, hình thái và đặc điểm của bệnh.
Theo đó, các nguyên nhân sản sinh ra bệnh được giải thích là do nội thương tình chí, can khí uất kết, can uất hóa hỏa dẫn đến can đởm hỏa thịnh, chạy đến bàng quang và quấn lấy mạch đới; chức năng vận hóa của tỳ bị suy giảm, thấp nhiệt ứ trệ ở kinh tỳ, tích lại bì phu sinh bệnh; ngoại cảm độc tà hình thành thấp nhiệt hỏa độc, bệnh thêm trầm trọng. Hỏa độc tích tụ tại phần huyết sinh ban đỏ, thấp nhiệt tích tụ thành bào chẩn, thấp nhiệt độc gây tắc kinh mạch, khí huyết không thông gây đau.
Chữa bệnh Zona thần kinh bằng phương pháp Đông y được nhiều người áp dụng khá hiệu quả. Ảnh minh họa. |
Đông y có nhiều phương pháp điều trị bệnh zona, trong đó có nhiều bài thuốc để uống, thuốc đắp, bôi ngoài, châm cứu...
Dưới đây là một số phương pháp chữa bệnh zona được ứng dụng có hiệu quả:
Thuốc dùng ngoài
Đối với bào chẩn chưa vỡ: Bôi kim hoàng tán, thanh lương cao.
Khi bào chẩn vỡ: Bôi bột thanh đại hoặc thanh đại cao.
Đối với zona không đau, chỉ cần thuốc bôi tại chỗ (bột trơ, hồ nước) các loại thuốc trên nếu có.
Đối với zona mắt, cần nhỏ thuốc kèm băng kín mắt.
Châm cứu
Phương pháp này dùng các huyệt nhĩ châm vùng phế, tuyến thượng thận, thần môn, kết hợp các huyệt toàn thân tùy theo vị trí tổn thương: tay châm hợp cốc, khúc trì, vùng chân châm túc tam lý, tam âm giao và các huyệt a thị. Gõ kim mai hoa quanh vùng tổn thương. Lưu ý nếu vùng tổn thương zona đã bị vỡ loét, mưng mủ nhiễm khuẩn thì không dùng phương pháp này.
Vi cứu
Đây là biện pháp dùng điếu ngải đốt cháy, cứu xung quanh vùng da bị zona cho tới khi vùng da cứu đỏ ửng lên, sau đó cứu các huyệt tâm du, phế du. Thời gian cứu 30-40 phút, ngày 1 lần.
Cũng giống như châm cứu, phương pháp vi cứu có tác dụng tả hỏa, giải độc, chỉ thống và được chứng minh có vai trò nâng cao khả năng miễn dịch của cơ thể, chống phù nề, chống viêm, tăng cường dinh dưỡng tới vùng tổn thương vì vậy đã thúc đẩy vùng da tổn thương nhanh khô, phục hồi lại trạng thái bình thường.
Một số bài thuốc theo thể bệnh
Thể thấp nhiệt
Thể thấp nhiệt có biểu hiện vùng tổn thương màu đỏ, mụn nước tụ lại, chất nước trong vỡ ra hoặc lở loét đau nhức ấn vào đầy trướng, mạch nhu sác hoặc hoạt sác, lưỡi hơi đỏ, rêu lưỡi trắng bệu hoặc vàng bệu, phải thanh hóa thấp nhiệt, lương huyết, giải độc.
Với thể này, thường dùng bài Ý dĩ nhân, xích đậu thang gia giảm: Ý dĩ nhân 15g, đậu đỏ 15g, phục linh bì 12g, kim ngân hoa 12g, địa phu tử 12g, sinh địa 12g, xa tiền tử 10g, xa tiền thảo 10g, xích thược 10g, mã xỉ hiện (rau sam) 10g, cam thảo 6g, hoắc hương 9g, bội lan 9g. Sắc uống ngày 1 thang.
Do nhiệt độc
Biểu hiện của thể này là vùng tổn thương có màu đỏ, có thể có nốt ban có nước mọc gom lại một chỗ hoặc giống như dải khăn, người bệnh cảm thấy nóng rát, đêm không ngủ được, họng khô, miệng đắng, nước tiểu vàng, táo bón, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng hoặc vàng khô, mạch huyền, sác.
Với thể này, dùng phép trịthanh nhiệt tả hỏa, giải độc, giảm đau. Dùng bài đại thanh liên kiều thang gia giảm: đại thanh diệp 9g, huyền sâm 9g, quán chúng 9g, hoàng cầm 9g, liên kiều 12g, kim ngân hoa 12g, sinh địa 12g, mã xỉ hiện 15g, đơn bì sao 6g, xích thược 6g, lục đậu 15-30g. Sau ó, sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Do khí trệ huyết ngưng
Thể bệnh zona do khí trệ huyết ngưng thường gặp ở người lớn tuổi, sau khi vết thương đã lành, còn rất đau, đêm không ngủ được, ngũ tâm phiền nhiệt, lưỡi đỏ hoặc đỏ tối, rêu lưỡi ít hoặc rêu trắng nhạt, mạch tế, sáp.
Để chữa bệnh ở thể này, dùng bài Kim linh tử tán gia giảm: Kim linh tử 9g, uất kim 9g, tử thảo căn 9g, huyền hồ sách 6-9g, sài hồ (tẩm giấm) 6g, thanh bì 6g, bạch thược sao 12g, đương quy 12g, ty qua lạc (xơ mướp) 10g. Sắc uống ngày một thang.
Thể can kinh uất nhiệt
Thể can kinh uất nhiệt thường có biểu hiện là những nốt ban đỏ, có nước, mặt căng bóng, đau như lửa đốt, họng khô miệng khát, người bứt rứt khó chịu, dễ nổi nóng, ăn không ngon, táo bón, nước tiểu vàng đậm, rêu lưỡi vàng, mạch huyền, hoạt, sác.
Điều trị thể này, phải dùng: Long đởm thảo 12g, hoàng cầm 12g, chi tử 16g, trạch tả 12g, mộc thông 12g, đương quy 12g, sinh địa 16g, cam thảo 16g, huyền sâm 16g, mạch môn 16g. Sắc uống mỗi ngày một thang.
Thể tỳ hư, thấp trệ
Thể này có biểu hiện sắc ban chẩn không tươi, mụn nước dày có thủy bào lớn, loét chảy nước thì đau nhẹ hơn, miệng khô khát, chán ăn, bụng đầy, phân lỏng, lưỡi bệu, sắc nhợt, rêu trắng dầy hoặc nhầy, mạch trầm, hoạt.
Để điều trị, dùng: Thương truật 16g, hậu phác 16g, trần bì 12g, bạch truật 16g, bạch linh 16g, trạch tả 12g, trư linh 12g, cam thảo 6g, nhục quế 4g, sinh khương 4g, khương hoạt 12g, đại táo 10g, kim ngân hoa 12g, bồ công anh 12g, huyền hồ 8g. Và sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Thể khí trệ huyết ứ
Ở thể này, bệnh có biểu hiện nốt phỏng sắc tối, đau liên tục, môi thâm, móng tay xanh, chân tay lạnh, mệt mỏi, da đã lành mà vẫn đau. Lưỡi có điểm ứ huyết hoặc tím.
Điều trị thể này, dùng: Dùng bài huyết phủ trục ứ thang: Đương quy 18g, sinh địa 18g, đào nhân 16g, hồng hoa 10g, chỉ xác 12g, xích thược 12g, sài hồ 6g, cam thảo 6g, cát cánh 8g, xuyên khung 6g, ngưu tất, rồi sắc uống mỗi ngày 1 thang.
MẠC NHIÊN(Tổng hợp)
Xem thêm video:
[mecloud]VA4nVlHNCS[/mecloud]