Asmat là bộ tộc sống trên đảo New Guinea (tỉnh Papua, Indonesia) có nhiều nét văn hóa độc đáo. Đặc biệt, bộ tộc này có tỷ lệ đồng giới rất cao và họ rất thích kết hôn đồng giới.
|
Sống trên đảo New Guinea (tỉnh Papua, Indonesia), Asmat là bộ tộc có nhiều nét văn hóa độc đáo. Dân số bộ tộc khoảng 70.000 người, sống trong rừng ngập mặn, đầm lầy. |
|
Người Asmat là những ngư dân cừ khôi và là những người trồng cao lương có tiếng. |
|
Kết hôn đồng giới là vấn đề nhạy cảm gây nhiều tranh cãi trên thế giới, nhưng người Asmat cho phép kết hôn đồng giới từ cách đây hàng ngàn năm. |
|
Điều kỳ lạ là bộ tộc này có tỷ lệ đồng giới rất cao và họ rất thích kết hôn đồng giới. Từ xa xưa, bộ tộc này đã cho phép hai người đàn ông kết hôn và sinh hoạt tình dục như những đôi nam nữ và ngược lại, phụ nữ cũng được thoải mái kết hôn với nhau. |
|
Người Asmat quan niệm, tình yêu là điều tuyệt diệu nhất trong cuộc sống, là thứ con người luôn khao khát và tìm kiếm trong cuộc sống, nên không có lý do gì để ngăn cấm. |
|
Asmat là một bộ tộc văn minh, họ sống định cư và biết áp dụng công nghệ hiện đại vào phát triển nông nghiệp và bảo tồn đa dạng sinh học trên đảo New Guinea. Đây là một trong số ít những bộ tộc có ý thức bảo vệ môi trường sống rất tốt. Họ tự lập các nhóm người nhằm bảo vệ tài nguyên rừng và sinh vật trước sự khai thác bừa bãi của người dân vùng khác. |
|
Với bàn tay khéo léo, nghệ thuật chạm khắc trên gỗ đạt đến mức tinh xảo, họ tự tạo những con thuyền lớn từ thân những cây gỗ to và trang bị cho mình những tấm liếp chắn bằng gỗ như những chiến binh để bảo vệ mình khi chiến đấu và săn bắt. |
|
Cấu trúc nhà ở của người Asmat khá đặc biệt. Họ thường làm những ngôi nhà bằng gỗ cách xa so với mặt đất nhằm phòng tránh nước lũ, hoặc nhà tròn lợp cỏ. |
|
Thậm chí, số nhiều còn làm nhà trên những ngọn cây cao để tránh thú dữ. Đây là nét văn hóa khá độc đáo của tộc người Asmat. |
|
Là tộc người tôn trọng tình yêu, hiền hòa, văn minh là vậy, nên khó ai có thể hình dung tộc người Asmat từng là bộ tộc có thói quen ghê rợn ăn thịt người. |
|
Họ có thói quen phơi khô phần xác của kẻ thù để ăn dần. Phần đầu họ giữ lại trong nhà như một thứ bùa thiêng. |
|
Họ tin rằng, hộp sọ đó sẽ là thứ ngăn chặn được ma quỷ và làm tăng thêm sức mạnh của những người đàn ông trong bộ tộc. |
|
Năm 1961, nhà thám hiểm người Mỹ - Rockefeller và nhà nhân chủng học người Hà Lan - René Wassing cùng nhau tới thám hiểm ở phía Tây bờ biển New Guinea, nhưng không may con thuyền của họ bị mất phương hướng, cả hai bị lênh đênh trôi dạt trên biển nhiều ngày liền. |
|
Vài ngày sau, con thuyền và Rockefeller đã được cứu giúp, nhưng René Wassing đã mất tích khi quyết định tự bơi vào bờ. |
|
Mọi thông tin về nhà thám hiểm René Wassing đều vô vọng và đoàn tìm kiếm buộc phải thông báo rằng, anh đã chết đuối khi bơi vào bờ. |
|
Tuy nhiên, đến năm 1969, một sự thật kinh hoàng đã được hé mở. Một nhà báo tới vùng này đã phát hiện ra câu chuyện về một người da trắng đã bị giết và bị ăn thịt. |
|
Đó là hành động trả đũa khi nhiều người đàn ông trong làng đã bị binh lính người Hà Lan giết hại năm 1958. |
|
Họ hả hê, tự hào khi đã trả thù được cho những người đã mất của bộ tộc mình và dĩ nhiên họ không quên giữ lại đầu của nhà thám hiểm nhiệt huyết, tội nghiệp như một kỳ tích. |
Link bài gốcLấy link
https://doisongphapluat.nguoiduatin.vn/dspl/bo-toc-tung-an-thit-nguoi-thich-ket-hon-dong-gioi-a47469.html