(ĐSPL) - Trong điều kiện phát triển bình thường, an ninh năng lượng đã là một nội dung quan trọng. Trong điều kiện có những biến động chính trị, quân sự, an ninh năng lượng lại càng cần được đặc biệt chú ý... Tuy nhiên, đối với các dự án nhiệt điện do nhà thầu Trung Quốc thực hiện, thực sự EVN đã chú tâm để hiểu hết những cái giá phải trả vẫn là một câu hỏi được nhiều chuyên gia đặt ra.
Trong bài viết này, báo Đời sống và Pháp luật xin được trích đăng ý kiến của PGS.TS. Bùi Huy Phùng, Chủ tịch Hội đồng khoa học Năng lượng (VEA) với quan điểm cần một cuộc cách mạng thực sự trong ngành năng lượng...
Vay, nhập của ai... cần cân nhắc
Theo PGS.TS. Bùi Huy Phùng, qua gần 30 năm đổi mới, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, ngành năng lượng Việt Nam đã có những bước phát triển rất đáng ghi nhận.
Giai đoạn 2001-2009 GDP tăng bình quân 7\%/năm, năm 2010-2012 tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng GDP tăng gần 6\%/năm, Việt Nam bước vào ngưỡng nước phát triển trung bình.
Sản xuất năng lượng sơ cấp tăng khoảng 7,5\%/năm. Năm 2012, sản xuất than sạch đạt 46 triệu tấn, dầu thô 16 triệu tấn, khí đốt 9 tỷ m3, tổng công suất các nhà máy điện khoảng 28.000MW, tổng sản lượng điện đạt 120,795 tỷ kWh.
Điện tiêu thụ đầu người đạt xấp xỉ 1.400kWh/người/năm. Cơ sở hạ tầng của ngành năng lượng phát triển nhanh. Nội dung sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường đang từng bước được quản lý thống nhất và có hiệu quả. Hoạt động năng lượng đang được định hướng dần theo cơ chế thị trường.
Tuy nhiên, cũng theo PGS.TS. Bùi Huy Phùng trong điều kiện hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay, để phát triển kinh tế nói chung và năng lượng nói riêng việc vay vốn nước ngoài, sử dụng công nghệ nhập ngoại là điều dĩ nhiên không thể tránh khỏi.
Đối với Việt Nam cũng không ngoài quy luật đó. Tuy nhiên vay, nhập của ai, tỷ lệ vay, hình thức vay, những điều kiện kèm theo là gì... cần được cân nhắc cẩn trọng. Thời gian qua, việc phát triển các công trình điện ở nước ta đã thể hiện nhiều bất cập, đặc biệt đối với các nhà thầu Trung Quốc.
Phân tích rõ về việc dự án điện do nhà thầu Trung Quốc thực hiện tiềm ẩn nhiều rủi ro, theo PGS.TS. Bùi Huy Phùng: Thông tin cho thấy, có tới 90\% các dự án điện do Trung Quốc trúng thầu và thực hiện. Các nhà thầu Trung Quốc thường trúng thầu do họ chấp nhận các điều kiện và đặt giá thấp.
Sau khi đã trúng thầu họ lại thực hiện theo ý họ từ công nghệ, nhân lực. Mặt khác đội giá lên với nhiều lý do: Bổ sung nhà thầu phụ thiết bị, thầu phụ xây lắp, thay đổi nhân sự, thời tiết, vận chuyển làm ảnh hưởng tiến độ, chất lượng kỹ thuật.
PGS.TS. Bùi Huy Phùng đưa ra ví dụ chứng minh ở các dự án: Nhiệt điện Hải Phòng, nhiệt điện Quảng Ninh (của EVN), khi phát hiện nhà thầu Trung Quốc đưa sang các thiết bị và vật tư kém chất lượng, không đúng thiết kế, chủ đầu tư không cho lắp, nhưng nhà thầu cứ lắp, thậm chí còn không cho chủ đầu tư vào kiểm tra trong hàng rào nhà máy lúc họ đang lắp đặt.
Ngành năng lượng đang rất cần một cuộc "cách mạng" để phát triển bền vững. Ảnh TTXVN |
Tiềm ẩn nhiều rủi ro
Nói về sử dụng vốn ODA của Trung Quốc, PGS.TS. Bùi Huy Phùng cũng bày tỏ mối lo tiềm ẩn nhiều rủi ro vì chủ đầu tư không kiểm soát được tỉ giá của đồng nhân dân tệ so với đô la Mỹ, không kiểm soát được việc thanh toán theo tiến độ, phía Trung Quốc thường yêu cầu ngân hàng Trung Quốc thanh toán ngay khi đưa thiết bị sang, bất chấp thiết bị đó có được chủ đầu tư chấp nhận hay không. Do vậy, nếu nhà thầu vi phạm về chất lượng và tiến độ thì cũng khó xử lý.
"Mặt khác, do sử dụng ODA của Trung Quốc nên nhà thầu thường đưa ra yêu sách là phải làm theo cách của Trung Quốc, xem nhẹ hồ sơ mời thầu và thiết kế của chủ đầu tư", PGS.TS. Bùi Huy Phùng cho biết.
Vị Chủ tịch VEA cũng bật mí, Trung Quốc đã viện trợ hầu khắp các ngành công nghiệp, năng lượng của Việt Nam. Vốn vay ưu đãi lãi suất thấp từ Trung Quốc chủ yếu là từ đầu mối ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc (China Eximbank).
Chẳng hạn, ở ngành điện, tính đến năm 2011, trong tổng số 9 dự án nhiệt điện do Vinacomin làm chủ đầu tư thì có 4 dự án vay vốn tín dụng xuất khẩu hoặc ODA của Trung Quốc. Các dự án nhiệt điện Cao Ngạn, Sơn Động, Cẩm Phả, Mạo Khê đều chủ yếu vay tín dụng xuất khẩu của China Eximbank, mỗi dự án có tổng vốn đầu tư ít nhất cũng hơn 3.500 tỷ đồng...
Nhưng điều đáng lo lắng nhất mà theo vị chuyên gia này là nhiều dự án do nhà thầu Trung Quốc thực hiện chậm tiến độ.
"Chẳng thế mà hồi cuối năm ngoái, VEA phải tức tốc có văn bản kiến nghị lên Nhà nước, Quốc hội. Qua văn bản kiến nghị của Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho thấy, hầu hết các dự án nguồn điện trong Quy hoạch điện VI (giai đoạn 2006-2010) đều bị chậm tiến độ như các nhà máy Thủy điện sông Ba Hạ, Pleikrông, Bản Vẽ... các nhà máy nhiệt điện: Uông Bí (mở rộng 1), Hải Phòng 1, Quảng Ninh 1, Vũng áng 1, Sơn Động, Mạo Khê, Nông Sơn, ô Môn 1. Đặc biệt, các dự án điện do các nhà thầu Trung Quốc đảm nhận như: Hải Phòng 1, Hải Phòng 2, Cẩm Phả 1, Cẩm Phả 2, Quảng Ninh 1, Quảng Ninh 2, Mạo Khê, Thái Nguyên, Vĩnh Tân 2, Duyên Hải 1 và nhà đầu tư tư nhân Trung Quốc như Kiên Lương... đều bị chậm. Có những dự án đến nay chưa triển khai, chậm tiến độ từ 2-3 năm", PGS.TS. Phùng khẳng định.
Lý do chậm cũng được PGS.TS. Bùi Huy Phùng phân tích ngay sau đó: Do năng lực nhà thầu yếu, thiếu kinh nghiệm và không thu xếp được tài chính. Nhà thầu hứa cung cấp đủ vốn cho dự án, nhưng thực chất là thiếu công nghệ, thiết bị không đồng bộ.
Về điều này, chính EVN cũng thừa nhận, đặc điểm chung nhiều dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện do ngành này quản lý, làm chủ đầu tư, dù được nhà thầu Trung Quốc bỏ thầu giá rẻ, nhưng lại bị chậm tiến độ gây thiệt hại khó thống kê được. Như nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn bị chậm 28 tháng, nhiệt điện Sơn Động chậm 24 tháng, nhiệt điện Nông Sơn chậm 20 tháng, nhiệt điện Cẩm Phả 1 chậm 10 tháng, nhiệt điện Cẩm Phả 2 chậm 3 tháng. Các dự án do ngành điện quản lý và đầu tư như nhiệt điện Hải Phòng 1, 2 và nhiệt điện Quảng Ninh 1, 2 đều chậm từ 18-24 tháng, đến nay vẫn chưa thể bàn giao được.
Tương tự, Vinacomin cũng cho biết, ước tính việc chậm tiến độ các dự án của đơn vị do nhà thầu Trung Quốc thi công gây thiệt hại hàng trăm tỷ đồng mỗi năm. Tính cả phần đội vốn, thì con số này phải lên tới cả nghìn tỷ đồng.
"Dự án chậm tiến độ đã làm tăng chi phí như tăng khoản lãi vay, tăng chi phí quản lý dự án, chi phí thuê tư vấn, tăng chi phí chuẩn bị sản xuất... Điều này được thể hiện qua việc nhiều dự án điện bị đội mức đầu tư khá nhiều sau khi hoàn thành. Mặt khác, không đảm bảo năng lượng cho phát triển nền kinh tế quốc dân, còn gây thiệt hại lớn hơn nhiều mà không dễ xác định", Chủ tịch VEA cho hay.
Để giải quyết bài toán này, PGS.TS. Bùi Huy Phùng cho rằng, trước mắt cần hạn chế tối đa việc nhập điện từ Trung Quốc, thực hiện tốt điều hành hệ thống và giảm tổn thất điện năng để bù đắp khoản điện nhập. Đồng thời đấu tranh và xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong đấu thầu và xây dựng các công trình năng lượng.
"Về lâu dài cần đổi mới một cách tổng thể ngành năng lượng trong bối cảnh đổi mới chung về thể chế, nội dung phát triển toàn diện nền kinh tế quốc dân, đảm bảo hiệu quả, minh bạch và tuân thủ chiến lược phát triển bền vững. Bên cạnh đó, cần tổ chức xây dựng quy hoạch năng lượng tổng thể quốc gia, mà trong Luật Điện lực (sửa đổi 2013) và từng bước phát triển vững chắc thị trường năng lượng, đặc biệt thị trường điện cạnh tranh công bằng, tránh độc quyền, hiệu quả, minh bạch...", PGS.TS. Bùi Huy Phùng khẳng định.
"Các dự án nhiệt điện chạy than lớn của Việt Nam chủ yếu sử dụng thiết bị có nguồn gốc Trung Quốc rẻ hơn nhiều so với thiết bị được chế tạo tại các nước G7. Ngay cả các thiết bị do G7 thiết kế, nhưng được chế tạo tại Trung Quốc thì chất lượng cũng không cao, do tiêu chuẩn chế tạo của Trung Quốc thấp. Vì vậy, chi phí đầu tư có giảm, nhưng chi phí vận hành, sửa chữa về sau lại rất cao. Kết cục, hiệu quả của các dự án điện sử dụng thiết bị chế tạo tại Trung Quốc còn thấp hơn so với các dự án dùng thiết bị G7". PGS.TS. Bùi Huy Phùng, Chủ tịch VEA |