(ĐSPL) - "Nổ" là nhân viên Mobifone, Luân mua sim thẻ trên thị trường rồi bán lại với giá thấp hơn. Chỉ bằng mánh khóe đơn giản ấy, đối tượng này đã chiếm đoạt tiền tỷ.
Theo báo An ninh thủ đô, ngày 28/11, TAND TP Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử bị cáo Phạm Thị Luân (SN 1984, trú tại xã Đại Hòa, Tân Yên, Bắc Giang) về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo khoản 4, Điều 139-BLHS.
Xét thấy số tiền bị cáo chiếm đoạt là rất lớn nên khép lại vụ án, Tòa án Hà Nội đã tuyên phạt Phạm Thị Luân 14 năm tù.
Phạm Thị Luân bị xét xử tại tòa - Ảnh: báo ANTĐ |
Như báo Giao thông đã đưa tin trước đó, Luân vốn không có công ăn việc làm ổn định nhưng thường xuyên “nổ” với mọi người là đang làm việc tại Tổng công ty Viễn thông Mobifone nên có khả năng chạy xin việc vào công ty này và có nguồn cung cấp sim thẻ điện thoại với giá rẻ hơn trên thị trường.
Trong khoảng thời gian từ 6/2013 đến 12/2014 Luân đã nhận tiền xin chạy việc và mua sim thẻ điện thoại của nhiều nạn nhân rồi chiếm đoạt của họ với tổng số tiền gần 2,4 tỷ đồng.
Trong số các nạn nhân, bà Bế Thị Tiềm (trú tại phường Xuân Phương, quận Nam Từ Liêm) bị Luân chiếm đoạt 1,26 tỷ đồng. Đây là số tiền bà Tiềm đưa cho Luân để mua sim thẻ điện thoại nhưng đối tượng này giao thiếu hàng hoặc không giao hàng. Ngoài ra Luân còn vay nợ bà Tiềm 1,47 tỷ đồng tiền mặt với mục đích tiêu xài cá nhân.
Một nạn nhân khác là anh Nguyễn Thế Anh (SN 1984, trú tại phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng) bị Luân chiếm đoạt gần 1 tỷ đồng tiền mua sim thẻ điện thoại và vay nợ của anh này 5 tỷ đồng nữa nhưng đã tiêu hết và không có khả năng trả nợ.
Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ năm 2009): 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.” Chú ý: Thông tin pháp lý trong hộp nội dung này được trích từ nguồn trên mạng Internet, nên chỉ mang tính tham khảo |
HẠNH VŨ (Tổng hợp)
Xem thêm video tại đây:
[mecloud]U9SBZNTg0W[/mecloud]