+Aa-
    Zalo

    Ai là người bồi thường khi người tâm thần gây thiệt hại?

    • DSPL

    (ĐS&PL) - (ĐSPL) - Trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì trong trường hợp này trách nhiệm bồi thường thuộc về ai?

    (ĐSPL) - Trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì trong trường hợp này trách nhiệm bồi thường thuộc về ai?
    Hỏi: Chú tôi năm nay 45 tuổi, bị tâm thần mức độ nặng. Ngày 15/4/2025 chú đã đốt nhà hàng xóm gây thiệt hại về tài sản rất lớn. Như vậy chú tôi có vi phạm pháp luật không? Và ai có thể là người giám hộ. Chúng tôi phải bồi thường gì không?
    Cám ơn!

    Ai là người bồi thường khi người tâm thần gây thiệt hại? - Ảnh minh họa.

    Xin tư vấn cho bạn
    Người được giám hộ bao gồm:
    - Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu. Người chưa đủ mười lăm tuổi được quy định trong trường hợp này phải có người giám hộ.
    - Người mất năng lực hành vi dân sự: Người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình phải có người giám hộ.
    Thủ tục giám hộ cho người mất năng lực hành vi dân sự như sau:
    - Trước hết phải yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự.
    Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định (Điều 22 Bộ luật Dân sự).
    Thủ tục tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự tiến hành theo trình tự quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Khi gửi đơn yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, người gửi đơn phải gửi kèm theo đơn là kết luận của cơ quan chuyên môn và các chứng cứ khác để chứng minh người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình (Điều 319 Bộ luật Tố tụng dân sự).
    - Sau khi Tòa án ra Quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì người được tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự sẽ được giám hộ. Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên được quy định tại Điều 62 Bộ luật Dân sự:
    + Trong trường hợp vợ mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ.
    + Trong trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo là người giám hộ.
    + Trong trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.
    Trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ đương nhiên theo quy định nêu trên thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ hoặc đề nghị một tổ chức đảm nhận việc giám hộ (Điều 63 Bộ luật Dân sự). Thủ tục cử người giám hộ thực hiện theo hướng dẫn tại Điều 64 Bộ luật Dân sự:
    + Việc cử người giám hộ phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ lý do cử người giám hộ, quyền, nghĩa vụ cụ thể của người giám hộ, tình trạng tài sản của người được giám hộ.
    + Việc cử người giám hộ phải được sự đồng ý của người được cử làm người giám hộ.
    Căn cứ vào các quy định nêu trên: Để cử người giám hộ cho người mất năng lực hành vi dân sự thì cần phải có Quyết định của Tòa án tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự; và để yêu cầu Tòa án ra Quyết định này thì đương nhiên phải có chứng cứ để chứng minh người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, như: Kết luận của cơ quan chuyên môn hoặc các chứng cứ khác để chứng minh.
    Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra
    Tại Khoản 3 Điều 606 Bộ luật Dân sự 2005 quy định Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân:
     “Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”
    Như vậy, theo các quy định trên, khi người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại.
    Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần (Khoản 1 Điều 605 Bộ luật Dân sự 2005).
    Luật Gia: Đồng Xuân Thuận
    Link bài gốcLấy link
    https://doisongphapluat.nguoiduatin.vn/dspl/ai-la-nguoi-boi-thuong-khi-nguoi-tam-than-gay-thiet-hai-a94397.html
    Zalo

    Cảm ơn bạn đã quan tâm đến nội dung trên.

    Hãy tặng sao để tiếp thêm động lực cho tác giả có những bài viết hay hơn nữa.

    Đã tặng:
    Tặng quà tác giả
    BÌNH LUẬN
    Bình luận sẽ được xét duyệt trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.