Tròn 70 năm đã trôi qua kể từ khi Hiệp định Geneve được ký kết (1954-2024), nhưng những bài học kinh nghiệm đúc rút từ quá trình đàm phán, thương lượng đi đến ký kết Hiệp định Geneve năm 1954 vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Hiệp định Geneve (1954) - Đỉnh cao thắng lợi, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam
Trải qua 75 ngày thương lượng với 31 phiên họp, cùng với nhiều cuộc gặp gỡ, tiếp xúc song phương và đa phương bên lề hội nghị, rạng sáng ngày 21-7-1954, ba Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và Campuchia lần lượt được ký kết[1]. Cũng trong ngày 21-7-1954, Hội nghị họp phiên bế mạc và thông qua "Tuyên bố cuối cùng" về Hiệp định lập lại hòa bình ở Đông Dương chấm dứt chiến sự ở các nước Đông Dương; các bên tham gia Hội nghị thừa nhận về nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; đồng thời quy định việc quân đội Pháp rút khỏi các nước Đông Dương,v.v..[2] ; từ đây mở ra một cục diện mới, buộc Pháp phải rút quân về nước, chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Đông Dương, mở ra giai đoạn sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ.
Tham gia Hội nghị Geneve có 9 đoàn: Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia và đoàn Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại. Diễn ra trong bối cảnh tình hình quốc tế diễn biến hết sức phức tạp, tại Hội nghị Geneve, Đoàn Đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tỏ rõ bản lĩnh, trí tuệ, giương cao ngọn cờ chính nghĩa, kiên định lập trường độc lập dân tộc; vừa tự chủ, tự cường trong cuộc đấu tranh bền bỉ, can trường với sự dàn xếp, chi phối của các nước lớn; vừa có những nhân nhượng khôn khéo, mềm dẻo, từng bước đàm phán tháo gỡ những bế tắc, căng thẳng, giải quyết thành công nhiều vấn đề rất khó khăn như: Phân vùng đóng quân, tổng tuyển cử trên cả nước và thống nhất Việt Nam, các lực lượng kháng chiến ở Lào và Campuchia... Hiệp định Geneve khẳng định tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và truyền thống hoà hiếu, tinh thần yêu chuộng hoà bình của nhân dân Việt Nam.
Với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu/chấn động địa cầu", phía Pháp buộc phải ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Geneve, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam kéo dài 9 năm, với biết bao hy sinh, gian khổ, hoàn thành chặng cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bằng giải pháp đàm phán, thương lượng; đưa đến việc chấm dứt chiến tranh, mở ra một thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam – thời kỳ đồng thời thực hiện hai chiến lược cách mạng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam thực hiện mục tiêu tối thượng của dân tộc là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Với Hiệp định Geneve, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng và trở thành hậu phương lớn, căn cứ địa vững chắc của tiền tuyến lớn miền Nam Việt nam. Đây là điều kiện hết sức quan trọng để quân và dân ta củng cố thắng lợi giành được, bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thực hiện nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Hiệp định Geneve chưa phản ánh đầy đủ tầm vóc và tư thế thắng lợi của nhân dân Việt Nam trên chiến trường, cũng chưa đáp ứng đầy đủ những yêu cầu, mong muốn do Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra. Nhân dân Việt Nam vẫn còn phải bước tiếp, vượt qua một hành trình đầy gian khổ, hy sinh trong cuộc đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, để Bắc Nam sum họp một nhà. Trên hành trình đó, giương cao ngọn cờ chính nghĩa, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nhân dân Việt Nam đã kiên trì, bền bỉ đấu tranh trên mọi lĩnh vực chính trị, ngoại giao và pháp lý nhằm thực hiện đầy đủ, nghiêm túc Hiệp định Geneve; nhất là trong hoàn cảnh chính quyền Ngô Đình Diệm luôn tìm mọi cách phá hoại Hiệp định, không tiến hành tổ chức tổng tuyển cử, tiếp tục âm mưu chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam, mở đường cho sự xâm lược của đế quốc Mỹ.
Hiệp định Geneve mở ra cục diện mới của cách mạng Việt Nam
Hiệp định Geneve ngày 21-7-1954 khẳng định sự trưởng thành của nền ngoại giao cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh cùng những thay đổi mang tính bước ngoặt trong vị thế quốc tế của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Lần đầu tiên trong lịch sử, các nước lớn tham gia Hội nghị Geneve đã công nhận và cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là: Chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia. Ý nghĩa lịch sử to lớn của Hiệp định Geneve đã được thể hiện rõ nét trong Lời kêu gọi sau khi Hội nghị Geneve thành công của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 22-7-1954, trong đó có đoạn: "Ngoại giao ta đã thắng lợi to… Chính phủ Pháp đã thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của nước ta, thừa nhận quân đội Pháp sẽ rút khỏi nước ta".
Hiệp định Geneve được ký kết là một thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam, cũng là thắng lợi của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, của nhân dân Pháp... là thất bại của chủ nghĩa thực dân xâm lược, là thất bại của đế quốc Mỹ. Nói về ý nghĩa thắng lợi và cục diện mới của cách mạng Việt Nam do Hiệp định Geneve mang lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nếu như trước đây ta chỉ có rừng núi và đêm, giờ đây ta có cả sông biển và ban ngày".
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và việc ký kết Hiệp định Geneve là thắng lợi của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và yêu chuộng hoà bình trên toàn thế giới. Đây là sự mở đầu cho làn sóng sụp đổ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, truyền cảm hứng và niềm tin cho các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latin, đưa đến sự ra đời của nhiều nhà nước dân chủ nhân dân; tiếp tục trở thành nguồn cổ vũ, động viên to lớn cho cuộc đấu tranh của Nhân dân Việt Nam vì độc lập, thống nhất của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Hiệp định Geneve chưa thực sự theo mong muốn của ta ở một số điểm: về phân chia giới tuyến tập kết ở Việt Nam, chúng ta buộc phải chấp nhận vĩ tuyến 17; về thời hạn tổng tuyển cử sau khi Hội nghị kết thúc ở Việt Nam, yêu cầu của chúng ta là 6 tháng, Hội nghị quyết định là 2 năm; về thời hạn hoàn thành tập kết chuyển quân, chúng ta yêu cầu là 90 ngày, quan điểm của Pháp là 380 ngày, cuối cùng Hội nghị quyết định thời gian tập kết phân chia theo khu vực, trong đó dài nhất là 300 ngày.
Khi đánh giá về ý nghĩa lịch sử của Hiệp định Geneve với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương khẳng định: "Với Hiệp định Geneve, tuy ta chưa hoàn thành việc giải phóng cả nước nhưng đã đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng: Đánh bại đế quốc Pháp, giải phóng miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành hậu phương vững chắc chuẩn bị điều kiện tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ sau này".
Hiệp định Geneve đúc kết những bài học kinh nghiệm quý
Một là, bài học về giữ vững độc lập, tự chủ, coi lợi ích quốc gia, dân tộc vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc cao nhất trong đối ngoại, trong nhân nhượng có nguyên tắc.
Độc lập, tự chủ, tự lực tự cường là truyền thống của dân tộc. Đây cũng là nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và quan điểm của Người về quan hệ quốc tế nói riêng. Hồ Chí Minh từng chỉ dẫn: "Muốn người ta giúp cho, thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã"[3]; và trong mọi vấn đề: "Tự lực cánh sinh là cái gốc, điểm mấu chốt"[4]. Trong quan hệ quốc tế nói chung và trên diễn đàn đối ngoại nói riêng thì vấn đề độc lập dân tộc, tự lực, tự cường luôn được Hồ Chí Minh khẳng định với một tuyên bố cách rõ ràng và nhất quán: "Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào".
Trong suốt quá trình đấu tranh và đàm phán, Việt Nam luôn nhất quán độc lập, tự chủ vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc cao nhất, bởi mỗi quốc gia, kể cả quốc gia đồng minh đều xử lý vấn đề quốc tế trên cơ sở lợi ích quốc gia. Bảo vệ được lợi ích dân tộc của Việt Nam tại Hội nghị Geneve 1954 là nhiệm vụ không hề dễ dàng. Cuộc chiến tranh Đông Dương đã bị quốc tế hóa với sự dính líu ngày càng sâu của cả hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là sự can thiệp ngày càng sâu và trắng trợn của đế quốc Mỹ. Kết quả trên bàn đàm phán phụ thuộc nhiều vào diễn biến trên chiến trường. Sau này Đảng đã nhận định: "Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường"[5]. Trải qua các cuộc đấu tranh, thương lượng căng thẳng, phức tạp, kết hợp với chiến thắng quân sự trên chiến trường, tuy còn một số kết quả không như momg muốn, Hội nghị đã kết thúc thắng lợi. Hội nghị đã trịnh trọng tuyên bố tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia; Pháp cam kết rút quân đội khỏi Đông Dương. Miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, trở thành hậu phương lớn cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Hai là, bài học về nhân nhượng có nguyên tắc
Hội nghị Geneve năm 1954 là lần đầu tiên nền ngoại giao non trẻ Việt Nam tham gia một diễn đàn đàm phán đa phương phức tạp, chịu sự chi phối của các nước lớn. Ngoại giao Việt Nam trực tiếp đương đầu với mối quan hệ hợp tác - đấu tranh giữa các nước lớn, mối quan hệ giữa các nước lớn và các nước nhỏ, cũng như sự cọ sát giữa các toan tính về lợi ích giữa các nước. Trong quá trình đàm phán, chính vì quan điểm xuyên suốt cốt lõi là giữ vững độc lập, tự chủ, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết, nên trong quá trình đàm phán Việt Nam luôn quán triệt quan điểm nhân nhượng có nguyên tắc. Rõ ràng, khi chấp nhận cùng nhau đàm phán tức là mỗi bên đều có điểm mạnh, yếu của mình; trên bàn đàm phán, bên nào cũng cố gắng giành phần có thể và nhân nhượng cho đối phương những điều mình chưa thể. Vì vậy, trong quá trình đàm phán, sự nhân nhượng lẫn nhau là điều tất yếu nhưng điều không bao giờ được phép nhân nhượng là độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Hiệp định Geneve là ví dụ điển hình của việc thực hiện nguyên tắc đó. Mặc dù Hiệp định có những điều khoản chưa hoàn toàn thỏa nguyện đối với phía ta nhưng vấn đề cốt tử là độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ thì ta kiên quyết bảo vệ và đã được các nước thừa nhận.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: "Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc nhưng sách lược của ta phải linh hoạt"[6]. Vì thế, trong quá trình đàm phán, nhà ngoại giao phải biết nhân nhượng đúng mức, không quá "tả" để phá vỡ đàm phán, không quá "hữu" để tổn hại đến lợi ích cơ bản của dân tộc.
Bài học về giữ vững các nguyên tắc trong Hội nghị Geneve cho đến nay vẫn nguyên giá trị: không bao giờ vì một tình hữu nghị viển vông, mơ hồ nào mà nhân nhượng lợi ích cốt lõi của dân tộc, đó là chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng, luôn coi lợi ích quốc gia, dân tộc vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc cao nhất trong đối ngoại.
Thứ ba, bài học về xử trí trong quan hệ với các nước lớn
Trong đấu tranh, đàm phán tại Hội nghị Geneve, Việt Nam sẽ phải trả giá đắt nếu mơ hồ về mục tiêu, lợi ích và ý đồ chiến lược của các nước lớn. Các nước lớn tham dự Hội nghị Geneve năm1954 thuộc hai hệ thống đối lập: một bên là Mỹ, Anh, Pháp (chủ nghĩa tư bản); một bên là Liên Xô, Trung Quốc (xã hội chủ nghĩa); cùng đàm phán, thương lượng và quyết định về số phận của 3 nước Đông Dương.
Về nguyên tắc, do cùng hệ thống xã hội chủ nghĩa nên Trung Quốc, Liên Xô ủng hộ vô điều kiện quan điểm, lập trường của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, quá trình đàm phán và ký kết Hiệp định đã có những điểm không như mong muốn, bị chi phối và vì lợi ích của từng nước lớn. Vì vậy, tăng cường quan hệ hợp tác với các nước lớn là nội dung quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, đồng thời, chúng ta không được mơ hồ về ý đồ, mục tiêu cũng như việc các nước lớn sẵn sàng thỏa hiệp với nhau vì lợi ích của từng nước. Vì thế quá trình đàm phám ký kết Hiệp định sẽ có nhiều nhân tố khách quan và chủ quan chi phối ở mỗi thời điểm lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, xuyên suốt quá trình đàm phán, mỗi lần buộc phải nhân nhượng, thoả hiệp, Việt Nam đều cân nhắc kỹ lưỡng trên các khía cạnh chủ yếu: nhân nhượng, thoả hiệp vì mục tiêu gì, với ai và về vấn đề gì; cái gì không thể nhân nhượng, thoả hiệp... Nhờ vậy, Hiệp định đã được các nước tham dự ký kết, trong đó, cái "bất biến" có tính nguyên tắc là độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất đất nước thông qua tổng tuyển cử đã được ghi rõ trong Hiệp định. Việt Nam luôn coi lợi ích quốc gia, dân tộc vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc cao nhất trong đối ngoại.
Thứ tư, bài học kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh ngoại giao với tranh thủ dư luận quốc tế, sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Hội nghị Geneve với tư thế chính nghĩa. Nỗ lực phấn đấu vì hòa bình, giành lại độc lập dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp nguyện vọng chung của nhân loại tiến bộ, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp. Tại Hội nghị , thông qua các hoạt động tiếp xúc với báo chí và các buổi hội đàm, Việt Nam đã làm cho dư luận quốc tế hiểu rõ mục đích chính đáng của Việt Nam là vì hòa bình, độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, đồng thời vạch trần những quan điểm sai trái của các đoàn trong quá trình đàm phán. Các hoạt động này đã biến tính chính nghĩa của cuộc chiến đấu của nhân dân ta thành sức mạnh, hỗ trợ tích cực cho đấu tranh trên bàn đàm phán. Đấu tranh dư luận, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế tại Hội nghị Geneve chính là ví dụ cụ thể của việc kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, nhân sức mạnh của dân tộc ta lên bội phần.
Việt Nam đến Hội nghị Geneve với tư thế chính nghĩa. Nỗ lực phấn đấu vì hòa bình, giành lại độc lập dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của chúng ta phù hợp với nguyện vọng chung của nhân loại tiến bộ, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp. Tại Hội nghị Geneve, qua các hoạt động tiếp xúc với báo chí, với các hội đàm, chúng ta đã làm cho dư luận hiểu rõ thiện chí của ta, hiểu rõ âm mưu và hành động của các thế lực thù địch ép chúng ta phải chấp nhận giải pháp bất lợi cho mình. Các hoạt động này đã biến tính chính nghĩa của cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam thành sức mạnh, hỗ trợ tích cực cho đấu tranh trên bàn đàm phán. Đấu tranh dư luận, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế tại Hội nghị Geneve chính là ví dụ cụ thể của việc kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, nhân sức mạnh của dân tộc ta lên bội phần.
Với kinh nghiệm quý đúc kết qua các hội nghị ngoại giao, trong đó có thành công từ Hội nghị Geneve, ngoại giao Việt Nam đã có bước trưởng thành, ngày càng thu được thành tựu rực rỡ. Đến năm 2024: "Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với tất cả 5 nước Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam đã và đang thể hiện tốt vai trò là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế; có nhiều sáng kiến, đề xuất và chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả vào các hoạt động của ASEAN, tổ chức Liên Hợp Quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác"[7].
Việt Nam là thành viên tích cực, có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế lớn như: Liên Hợp Quốc, ASEAN, WTO, APEC, ASEM...; đã và đang đàm phán 19 hiệp định thương mại tự do, tạo nên một mạng lưới liên kết kinh tế rộng mở với khoảng 60 nền kinh tế trên thế giới.
Tròn 70 năm đã trôi qua kể từ khi Hiệp định Geneve được ký kết, tình hình khu vực, thế giới từng ngày, từng giờ có sự vận động, chuyển biến khôn lường, trong đó, sự cạnh tranh và thoả hiệp lẫn nhau giữa các nước lớn vẫn đặt ra những thách thức không nhỏ đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Những bài học kinh nghiệm đúc rút từ quá trình đàm phán, thương lượng đi đến ký kết Hiệp định Geneve năm 1954 vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
TS. Đặng Kim Oanh
Tổng Biên tập Tạp chí Lịch sử Đảng,
Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh